Các giai đoạn của lịch sử ấn độ từ thời phong kiến. Một số thành tựu văn hóa ấn độ thời cổ, trung đại (ngăn gọn thôi nha)

By Lydia

Các giai đoạn của lịch sử ấn độ từ thời phong kiến. Một số thành tựu văn hóa ấn độ thời cổ, trung đại (ngăn gọn thôi nha)

0 bình luận về “Các giai đoạn của lịch sử ấn độ từ thời phong kiến. Một số thành tựu văn hóa ấn độ thời cổ, trung đại (ngăn gọn thôi nha)”

  1. a) Chữ viết:  ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại chữ cổ mà ngày nay người ta còn lưu giữ được khoảng 3000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ hoạ. Thế kỉ VII TCN, ở đây đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, thế kỉ V TCN
    ở Ấn Độ lại xuất hiện chữ Sanscrit, đây là cơ sở của nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này.
    b) Văn học: Ấn Độ là nước có nèn văn học rất phát triển, gồm có 2 bộ phận chính
    là Vê đa và sử thi, tuy nhiên nổi bật hơn cả là sử thi với hai tác phẩm văn học nổi
    bật thời cổ đại là Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là bản trường ca gồm
    220 000 câu thơ. Bản trường ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu
    Bharata. Bản trường ca này có thể coi là một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh
    mọi mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó. Ramayana là một bộ sử thi dài 48 000
    câu thơ, mô tả một cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa Sita. Thiên
    tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á. Riêmkê ở
    Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana.
    Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tâp ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đựng rất nhiều
    tư tưởng được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc Á-Âu.
    c) Nghệ thuật: Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh
    hưởng tới nhiều nước Đông Nam Á. Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ
    một tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba
    dòng nghệ thuật: Hinđu giáo, Phật giáo, Hồi giáo. Có rất nhiều chùa tháp Phật
    giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Đây là
    dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình
    vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang có những bức tượng Phật
    và nhiều bích hoạ rất đẹp.
    Các công trình kiến trúc Hinđu giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ và
    được xây dựng nhiều vào khoảng thế kỉ VII – XI. Tiêu biểu cho các công trình
    Hinđu giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, gồm tất cả 85 đền xen giữa
    những hồ nước và những cánh đồng.
    Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng
    vào khoảng thế kỉ XIII và lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII.
    d) Khoa học tự nhiên:
    – Về Thiên văn: người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12
    tháng, mỗi tháng có 30 ngày. ( Như vậy năm bình thường có 360 ngày ). Cứ sau 5
    năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận.
    – Về Toán học: Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số
    mà ngày nay ta quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không,
    nhờ vậy mọi biến đổi toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. (Người Tây
    Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã mà sử dụng số Arập trong toán học.) Họ đã tính
    được căn bậc 2 và căn bậc 3; đã có hiểu biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa 3
    cạnh trong một tam giác. Pi = 3,1416.
    – Về vật lý: Người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ V TCN, có
    một nhà thông thái ở Ấn Độ đã viết “…trái đất, do trọng lực của bản thân đã hút tất
    cả các vật về phía nó”.
    – Y học: cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp
    ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại
    hai quyển sách là “ Y học toát yếu” và “ Luận khảo về trị liệu”.
    e)Tư tưởng, tôn giáo:
    Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo như đạo Balamôn, đạo Phật, đạo, Jain và
    đạo Xích.
    + Đạo Balamôn ra đời vào khoảng thế kỉ XV TCN, trong hoàn cảnh đang có sự
    bất bình đẳng rất sâu sắc về đẳng cấp và đạo này chứng minh cho sự hợp lí của
    tình trạng bất bình đẳng đó. Đạo Balamôn không có người sáng lập, không có giáo
    chủ. Đạo Balamôn thờ thần Brama(thần Sáng tạo), Visnu(thần Bảo vệ), Siva(thần
    Huỷ diệt, có huỷ diệt cái cũ thì mới có thể sáng tạo cái mới)…Về mặt xã hội, đạo
    Balamôn là công cụ để bảo vệ chế độ đẳng cấp. Giáo lí quan trọng nhất của đạo
    Balamôn là thuyết luân hồi mà sau này nhiều tôn giáo khác chịu ảnh hưởng. Trong
    quá trình phát triển, đạo Balamôn có thể chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn Vêđa ( thế
    kỉ XV TCN – thế kỉ V TCN ), giai đoạn Balamôn ( thế kỉ V TCN – đầu CN ), giai
    đoạn Hinđu (đầu CN – nay )
    + Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ I TCN do thái tử Xitđacta
    Gôtama, hiệu là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng. Các tín đồ Phật giáo
    lấy năm 544 TCN là năm thứ nhất theo Lịch Phật, họ cho là đây là năm Đức Phật
    nhập niết bàn. (Vì vậy, những người châu Á theo đạo Phật trước kia vẫn để ý đến
    ngày qua đời hơn ngày ra đời, khác hẳn những người theo đạo Thiên chúa).
    Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế( bốn điền suy xét kì diệu):
    • Khổ đế (suy xét về sự khổ cực, luân hồi, nghiệp báo)
    • Nhân đế-Tập đế(nguyên nhân của sự khổ là dục-lòng ham muốn)
    • Diệt đế (con đường tiết dục, diệt dục để trừ nghiệp báo)
    • Đạo đế (con đường để giải thoát khỏi sự luân hồi, nghiệp báo)
    Đức Phật còn đề ra tám con đường chính trực để tu hành-Bát chánh:
    • Chánh kiến: Phải có tín ngưỡng đúng đắn.
    • Chánh tư duy: Phải có suy nghĩ đúng đắn
    • Chánh ngữ: Phải có lời nói đúng.
    • Chánh nghiệp: Phải có hành động đúng .
    • Chánh mệnh: Phải có cuộc sống đúng đắn.
    • Chánh tinh tiến: Phải có những ước mơ đúng đắn.
    • Chánh niệm: Phải có những điều tưởng nhớ đúng đắn.
    • Chánh định: Phải tập trung tư tưởng mà suy nghĩ .
    Đạo Phật còn đề ra Ngũ giới:
    • Bất sát sinh: Không giết hại các động vật.
    • Bất đạo tặc: Không trộm cướp.
    • Bất vọng ngữ: Không nói dối .
    • Bất tà dâm: Không tham vợ hay chồng của người khác.
    • Bất ẩm tửu: Không uống rượư.
    Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của đạo Phật là thuyết duyên khởi. Do quan
    niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương Vô tạo giả, Vô ngã, Vô
    thường. Vô tạo giả quan niệm, thế giới này không do một đấng tối cao nào tạo ra,
    tự nhiên mà có và vô cùng vô tận. Như vậy là đạo Phật không dựa vào một đấng
    tối cao nào để giải thích về sự xuất hiện thế giới như các tôn giáo khác. Vô ngã
    cho là không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con người cũng
    chỉ là tập hợp của Ngũ uẩn ( sắc, thụ, tưởng, hành , thức) chứ không phải là một
    thực thể tồn tại lâu dài.
    Vô thường cho là vạn vật trong thế giới này biến đổi không ngừng, không có gì là
    vĩnh cửu cả.
    Qua những giáo lí ban đầu của đạo Phật như vậy, ta thấy lúc đầu đạo Phật chỉ là
    một triết lí về nhân sinh quan. Đạo Phật sơ khai lúc đầu không thời bất cứ một vị
    thần thánh nào. Ngay cả Phật tổ Sakya Muni cũng không tự coi mình là thần
    thánh. Tuy Phật tổ Sakya Muni có tổ chức các tăng đoàn Tỳ Kheo (đoàn thể những
    tăng lữ khất thực) để đi truyền bá đạo Phật ở khắp nơi nhưng đó không phải là một
    tổ chức tôn giáo có hệ thống chùa tháp như ngày nay.
    Trong hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công do chế độ đẳng cấp gây ra, thì đạo Phật
    lại chủ trương không phân biệt đẳng cấp, kêu gọi lòng thương người(từ bi hỉ
    xả),tránh điều ác, làm điều thiện. Những lời kêu gọi sự công bằng, lòng nhân đức
    đó đã được đông đảo người dân hưởng ứng.
    + Đạo Jain-Kỳ Na cũng xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI TCN. Đạo này chủ trương
    bất sát sinh một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh.
    + Đạo Sikh- Xích xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ XV. Giáo lí của đạo Xích
    có sự kết hợp giáo lí của đạo Hinđu và giáo lí của đạo Islam. Tín đồ đạo Xích tập
    trung rất đông ở bang Punjap và ngôi đền thiêng liêng của họ là ngôi đền Vàng ở
    Punjap.

    Trả lời
  2. – Những nghề thủ công truyền thống của Ấn Độ là:

        + Nghề luyện sắt và đúc sắt.

        + Nghề làm đồ gốm, có xưởng gốm mịn, tráng men màu thẫm, ngả từ màu xanh thép sang màu xám thẫm và đen bóng.

        + Nghề dệt bông, đay, dệt tơ lụa.

        + Nghề làm đồ gỗ.

    – Những hàng thủ công nổi tiếng là:

        + Hàng len thô dệt bằng lông cừu.

        + Vải trắng dệt sợi bông.

        + Hàng dệt bằng tơ lụa.

        + Đồ gốm: chén, bát, đĩa… đạt trình độ cao.

    Trả lời

Viết một bình luận