câu 1 diễn biến kết quả và ý nghĩa cuộc tiến công để phòng vệ của nhà lý câu 2 trình bày hiểu biết và nhận xét của em về vua lý công uẩn

By Anna

câu 1 diễn biến kết quả và ý nghĩa cuộc tiến công để phòng vệ của nhà lý
câu 2 trình bày hiểu biết và nhận xét của em về vua lý công uẩn

0 bình luận về “câu 1 diễn biến kết quả và ý nghĩa cuộc tiến công để phòng vệ của nhà lý câu 2 trình bày hiểu biết và nhận xét của em về vua lý công uẩn”

  1. Câu 1:

    Diễn biến:Ngày 4/7/1885: đồn Mang Cá và tòa Khâm sứ – nơi đóng quân của địch trở thành đối tượng tấn công của phái chủ chiến. Tôn Thất Thuyết cho đặt đại bác, đóng cửa thành, đặt súng thần công đồng thời bí mật chia quân thành 2 đạo.

    +Một đạo do Tôn Thất Lệ – em trai Tôn Thất Thuyết chỉ huy. Đạo này tiến hành vượt sông Hương, hợp nhất cùng quân của Đề đốc thủy sư và Hiệp Lý đánh úp tòa Khâm sứ. 5000 thủy binh cùng anh dũng chiến đấu.

    +Một đạo do Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn chỉ huy ở bên sông còn lại chặn quân tiếp viện tại Trấn Bình Đài.

    +Một toán quân khác được cử mai phục ở cầu Thanh Long để đánh úp tên chỉ huy đồn Mang Cá – Pemot. Một đội quân khác ở phía sau Đại nội để tiếp viện kịp thời.

    +Đêm mùng 5, rạng sáng 5/7/1885, đại bác được bắn, Trần Bình Đài bị tấn công, quân Tôn Thất Lệ tiến vào tòa khâm sứ khi quân Pháp đang khao thưởng quân đội khiến chúng quá bất ngờ. Kết quả là lầu Khâm sứ bị phá nặng nề, đồn Mang Cá bị cháy, quân Pháp tổn thất nặng nề.

    +Như đã thấy được sự thất bại của cuộc phản công tại kinh thành Huế, vua Hàm Nghi may mắn được Tôn Thất Thuyết đem đi trốn.

    +Quân Pháp tuy bất ngờ nhưng vẫn thủ thế tới sáng và phản công khi mặt trời mọc. Súng, pháo hạm Javelin của Pháp được huy độn. Ta bị hủy nhiều cung điện và Hoàng thành.

    +3 cánh quân Pháp tiến vào kinh thành, nhanh chóng chiếm 3 trọng điểm là Đại Nội, vườn Thượng Uyển và cửa Hiển Nhơn. Quân ta bị bất ngờ, tuy hạ được thiếu úy Pellicot nhưng thiệt hại nặng. Pháp thành công tiến vào thành, hạ cờ ta và treo cờ của chúng lên kỳ đài.

    +Quân ta tháo chạy tại cửa Đông Ba nhưng vấp phải sự bao vây. Người dân, binh lính dẫm đạp, chen lấn nhau thoát khỏi trận địa. Quân Pháp ra sức giết chóc, cướp bóc, đốt nhà cửa dân ta.

    Kết quả:Cuộc phản công tại kinh thành Huế kết thúc vào ngày 5/7/1885, quân ta bại trận và thiệt hại nặng nề. Có đến 1200 – 1500 người ta hi sinh, quân Pháp chỉ mất 16 người, bị thương 80 người. Mọi thứ từ vũ khí, lương thực, quốc khố nhà Nguyễn bị Pháp nắm giữ.

    Ý nghĩa:Cuộc phản công kinh thành Huế là khẳng định ý chí, tinh thần yêu nước, chiến đấu đến cùng vì độc lập tự do của con dân nước Nam.

     Câu 2: 

    Đối với một quốc gia, nhắc đến những nhà lãnh đạo đất nước là nhắc đến những người đứng đầu bộ máy hành chính nhà nước hay tổ chức quân sự, văn hoá… Đứng trên cương vị một nhà lãnh đạo, trước hết họ phải là những người có tầm nhìn xa trông rộng, nhận định đúng tình hình đất nước, từ đó xác định đúng nhiệm vụ của cả dân tộc. Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đều là những nhà lãnh đạo tài ba, uyên bác thông hiểu kim cổ đông tây. Vị vua đầu tiên của triều Lý đã nhắc đến gương chuyển đô của vua Bàn Canh nhà Thương, nhà Chu. Trần Quốc Tuấn lại nêu gương những anh hùng hào kiệt, biết xả thân vì chủ tướng vì đất nước: Do Vu, Dự Nhượng, Kỉ Tín,… Có thể nói, biết “ôn cố” để “tri tân” là một trong những tố chất không thể thiếu của một nhà lãnh đạo. Và từ việc “nhớ chuyện cũ”, các nhà lãnh đạo tài ba đã thể hiện thiên năng “biết chuyện mới, chuyện đời nay” rất tài tình. Nhà Đinh, Lê “không noi theo dấu cũ Thương Chu” giữ nguyên vị trí kinh đô tại Hoa Lư mà đất Hoa Lư chỉ là chốn núi rừng hiểm trở, khắc nghiệt. Điều đó khiến thời vận đất nước gặp nhiều trắc trở. Lịch sử cũng đã chứng minh điều đó, hai nhà Đinh Lê triều vận ngắn ngủi, nhân dân gặp nhiều khó khăn.. Có thể nói, việc phê phán hai triều Đinh, Lê một phần lớn đã thể hiện tầm nhìn lãnh đạo của Lí Công Uẩn. Ông đã nhìn rõ một thực tế quan trọng: đất nước đang bước vào thời bình, Hoa Lư không còn phù hợp với vị thế kinh đô nữa! Trần Quốc Tuấn cũng vậy. Từ thực tế của việc giặc Nguyên Mông xâm lược nước ta lần một và thái độ của chúng hiện nay, ông đã thấu rõ nguy cơ của một cuộc chiến chống xâm lược. Sang nước ta, quân Nguyên Mông “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt Tể phụ”, “đi lại nghênh ngang”, bắt dân ta cống nạp khoáng sản, vàng bạc.. Vậy rõ ràng, chúng chưa hề thấm thía bài học từ thất bại của cuộc xâm lược lần một và đang mưu mô cuộc chiến tranh ăn cướp lần hai. Giặc như vậy còn lực lượng quân sĩ ta thì sao? Vị nguyên soái lỗi lạc thêm một lần đau xót khi chứng kiến thực cảnh binh sĩ dưới quyền lơ là mất cảnh giác trước nguy cơ mất nước. Họ “hoặc thích chọi gà, hoặc mê tiếng hát”, chơi cờ… Ông cay đắng chỉ ra một điều tất yếu là khi giặc đến những thú vui ấy chỉ trở thành tai họa “cựa gà trống không đâm thủng áo giáp của giặc”, “tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai”, “mẹo đánh cờ không thể dùng làm mưu lược nhà binh”… Từ việc nhìn nhận thấu suốt tình hình đất nước, các nhà lãnh đạo anh minh đều xác định rõ nhiệm vụ của quân và dân. Điều quan trọng là họ có những quyết định đúng đắn, những hành động táo bạo để đưa đất nước đển được bến bờ của sự bình yên và phát triển. Lí Thái Tổ xác định nhiệm vụ hiện tại là cần dời đô khỏi Hoa Lư. Nhưng dời đô đến đâu? “Thành Đại La.. là nơi trung tâm trời đất,có thế rồng cuộn hổ ngồi lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta chỉ có nơi đây là thánh địa”. Từ việc có ý thức sâu sắc ưu thế của thành Đại La đối với việc phát triển đất nước, Lí Thái Tổ đã có quyết định đúng đắn là thiên đô về mảnh đất văn hiến này. Trần Quốc Tuấn trên cương vị Tổng chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông đã khẳng định ý chí đánh giặc của toàn dân tộc đồng thời khuyên khích, động viên tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Ông khuyên quân sĩ phải biết “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội”, phải biết ra sức tập luyện để sẵn sàng chiến đấu. Không chỉ vậy, ông còn soạn thảo “Binh thư yếu lược” làm sách lược cho binh sĩ tập luyện, rèn quân. Dựa vào văn bản “Chiếu dời đô” và “Hịch tướng sĩ” hãy nêu suy nghĩ của em về vai trò của những người lãnh đạo anh minh như Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn với vận mệnh của đất nước. 16:46 – 23/04/2014 A L O N E Chưa có chủ đề Có thễ nói dân tộc VN đã trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, đó là 1 truyền thống rất đáng tự hào. Đất nước sống đời thái bình, no ấm chính là nhờ tài đức của các vị vua, các vị tướng sĩ văn võ song toàn như Lý Công Uẩn (tức vua Lý Thái Tổ), Trần Quốc Tuấn (tức Hưng Đạo Vương). Họ là những người lãnh đạo anh minh suốt đời vì vận mệnh của đất nước. Dựa vào văn bản “Chiếu dời đô” Lý Công Uẫn và văn bản “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn chúng ta sẽ làm sáng tỏ điều đó. Như chúng ta đã biết, Lý Công Uẩn vốn là người thông minh nhân ái, có chí lớn và lập được nhiều chiến công. Vì thế, khi Lê Ngọa Triều mất, ông được triều thần tôn lên làm vua lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Lý Công Uẫn lên ngôi đã lập tức quyết định dời kinh đô Hoa Lư ra thành Đại La, bởi nhà vua hiễu rõ Đại La chính là vùng đất mà nhân dân sẽ sống no ấm, đất nước được hưng thịnh đời đời. Lý Công Uẩn quyết định như thế không phải theo ý riêng mình mà chính là lo cho vận nước, hợp với lòng dân. Người viết “Chiếu dời đô” bày tỏ mục đích dời đô là: “vân mệnh trời”, “theo ý dân”, “thấy thuận thiên thì thay đổi”, dời đến nơi “trung tâm trời đất”, tiện hướng “nhìn sông dựa núi”,… “nơi đây là thánh địa”. Đọc văn bản “chiếu dời đô” ta cảm nhận Lý Công Uẩn không chỉ là 1 vị vua có tài mà còn có đức, ông xứng đáng là vị vua anh minh bậc tiên đế muôn đời. Quyết định dời đô của ông là rất sáng suốt bởi vì kinh đô Đại La đã vững mạnh suốt 200 năm, có nghĩa là nhân dân thái bình, no ấm trong suốt thời gian đó (kinh đô Đại La_Thăng Long_chính là thủ đô Hà Nội ngày nay, linh hồn của VN) Thời kì nhân dân Đại Việt phải đương đầu với quân Nguyên_Mông hung hãn, vị nguyên soái Trần Quốc Tuấn tức Hưng Đạo Vương đã 3 lần cầm quân đánh bại quân xâm lược. Ông xứng đáng là 1 vị anh hùng của dân tộc. Trước năm 1285, Trần Quốc Tuấn đã viết bài “Hịch tướng sĩ” với mục đích kêu gọi tướng sĩ học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ đễ chuẩn bị đánh quân xâm lược. Bài Hịch có sức thuyết phục rất cao bởi lập luận sắc bén, có tình có lý. Trong bài Hịch Trần Quốc Tuấn sáng suốt nêu gương các trung thần nghĩa sĩ của Trung Quốc đễ đánh vào lòng tự tôn của các tướng sĩ dưới quyền. Ông nhắc lại cách đối xử thân tình của mình đến với họ, chỉ cho họ thấy tội ác của giặc, bày tỏ tấm lòng của mình trước vận mệnh của đất nước. Trần Quốc Tuấn đã phản ánh phê phán sự bàng quan vô trách nhiệm của các tướng sĩ. Vạch ra nguy cơ nước mất nhà tan, rồi lật ngược vấn đề: Nếu tướng sĩ lo học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ thì mọi người được sử sách lưu danh. Với cách lập luận như thế, Trần Quốc Tuấn đã khơi dậy, khích lệ lòng yêu nước, căm thù giặc của tất cả mọi người. Trần Quốc Tuấn vốn là con nhà võ nhưng thấu đáo sự học làm người, nắm rõ “tam cương, ngũ thường”. Ông xứng đáng là 1 tấm gương để chiến sĩ noi theo. Trong kho tàng văn học nước nhà “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn xứng đáng là 1 “An thiên cỗ hùng văn”, “tiếng kèn xung trận hào hùng”, mãi mãi nhân dân thời Trần (thế kỉ 13) và mọi đời sau sẽ không bao giờ quên công đức của ông. Nói tóm lại, lịch sử đất nước Việt Nam có những trang vàng chói lọi là nhờ vào những vị vua, vị tướng anh minh như Lý Công Uẫn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi,… Họ là tấm gương sáng ngời đễ đời sau soi vào đó mà học tập. Chúng ta tưởng nhớ đến Bác Hồ đã lãnh đạo toàn dân giành độc lập ngày hôm nay. Chúng ta chắc chắn Bác đã noi gương những người đi trước. Sống xứng đáng với sự hi sinh của họ. Bác đã từng nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Và người cũng đã ân cần dạy tuổi trẻ “có tài mà không có đức thì là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.

    /Chúc bạn học tốt, nhớ vote cho mk nha/

    *Chúc bạn thi giữa kì tốt nha*

    Trả lời
  2.  câu 1:

    Diễn biến

    – Tháng 10-1075, Lý Thường Kiệt và Tông Đản chỉ huy hơn 10 vạn quân tiến vào đất Tống.

    – Cho yết bảng nói rõ mục đích cuộc tấn công để tự vệ. 

    Kết quả

    Sau 42 ngày đêm, quân ta đã làm chủ thành Ung Châu, tướng giặc phải tự tử. Đạt được mục đích, Lý Thường Kiệt chủ động rút quân, chuẩn bị phòng tuyến chặn địch ở trong nước.

    Ý nghĩa

    – Trận tập kích này đã đánh đòn phủ đầu, làm cho quân Tống hoang mang, bị động, lúng túng.

    – Củng cố tinh thần của nhân dân.

    câu 2:

    – Lí Công Uẩn đã nhìn thấy những thuận lợi ấy của Đại La. Thể hiện được tầm nhìn chiến lược của Lí Công Uẩn , một cái nhìn toàn diện, sâu sắc, chính xác về các mặt. Vị trí địa lý, địa thế, nhân văn của thành Đại La.

    – Ông quan tâm tới nhân dân, tìm chốn lập đô cũng vì dân, mong dân hạnh phúc, đất nước vững bền…

    – Dời đô Thăng Long là một bước ngoặc lớn, đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc Đại Việt.

    – Một ngàn năm sau, Thăng Long trở thành Hà Nội, thủ đô hòa bình, trung tâm chính trị, kinh tế , văn hóa của nhân dân ta.

    Trả lời

Viết một bình luận