Sự khác nhau giữa hệ thống chính trị trước và sau đổi mới

By Everleigh

Sự khác nhau giữa hệ thống chính trị trước và sau đổi mới

0 bình luận về “Sự khác nhau giữa hệ thống chính trị trước và sau đổi mới”

  1. Điểm khác

    Do nhiều lý do chủ quan và khách quan chi phối, đường lối, chủ trương, quan niệm CNH xã hội của Đảng ở các thời kỳ có những khác nhau, thực chất là quá trình thể nghiệm, trăn trở để dần tìm ra hướng đi đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đất nước.

    Đặc biệt, với 20 năm đổi mới, quan niệm, mô hình và con đường CNH XHCN ở nước ta đã định hình trên những đường hướng tổng thể và tính đúng đắn của nó đã được kiểm chứng ở những thành quả phát triển chung của đất nước.

    Đó là một quá trình chuyển biến nhận thức, trên cơ sở tổng kết thực tiễn đất nước và kinh nghiệm thế giới, để không ngừng bổ sung, hoàn thiện quan niệm của đảng cầm quyền về CNH XHCN.

    a) Theo Bộ chính trị:  “Bên cạnh những điểm thống nhất nêu trên, công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay có nhiều cái khác so với trước đây mà một số điểm chính là:

    * Công nghiệp hoá trước đây được tiến hành theo cơ chế cũ, tập trung quan liêu, bao cấp; thực hiện kế hoạch hoá tập trung với các chỉ tiêu pháp lệnh. Ngày nay, chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo cơ chế mới, là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng; thị trường phản ánh nhu cầu xã hội, có tiếng nói quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực cho sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm thước đo.

    * Trước đây, công nghiệp hoá thường được hiểu là việc của Nhà nước, thông qua khu vực quốc doanh và tập thể là chủ yếu. Ngày nay, nó là sự nghiệp của toàn dân với sự tham gia tích cực của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

    Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước cũng linh hoạt hơn, bao gồm những doanh nghiệp mà Nhà nước nắm một số cổ phần, khống chế tương đối hay tuyệt đối. Đồng thời thực hiện đa dạng hoá và đan xen các loại hình sở hữu.

    * Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, Đảng ta đã đề ra quan điểm xây dựng nền kinh tế mở cả trong nước và với bên ngoài; đa dạng hoá, đa phương hóa quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền; thúc đẩy mở cửa, khuyến khích các hình thức hợp tác, liên doanh nhằm thu hút vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài.

    Quan niệm của chúng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng được điều chỉnh phù hợp với xu thế quốc tế hoá về kinh tế. Trước đây, chúng ta thường thực hiện các công trình theo kiểu khép kín, làm từ đầu đến cuối. Ngày nay, chúng ta có thể đi từ lắp ráp, tiến tới sản xuất trong nước một phần với tỷ lệ tăng dần, thích hợp. Trên thế giới hiện nay, không ít sản phẩm hoàn chỉnh là kết quả hợp tác của nhiều nước. Một số sản phẩm mà chúng ta sản xuất cũng có thể làm theo cách đó.

    Trên đây là một số điểm chính về sự khác nhau giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay và trước đây”

    b) Theo tôi, bên cạnh những điểm khác nêu trên, tư duy – đường lối – lãnh đạo thực hiện CNH Việt Nam của Đảng trước và sau Đại hội Đổi mới (1986) còn có thêm những đặc điểm khác sau:

    Có thể khái quát những chuyển biến CNH XHCN của Đảng ở mấy nét lớn sau:

    * Thứ nhất, về cách giải quyết mối quan hệ giữa phát triển LLSX và xây dựng QHSX XHCN trong quá trình công nghiệp hóa.

    Trong tiến trình cách mạng XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiệm vụ phải vừa lãnh đạo phát triển LLSX vừa lãnh đạo xây dựng QHSX XHCN.

    Đây là một mối quan hệ lớn được Đảng ta đặc biệt quan tâm và liên tục có nhiều đổi mới rất quan trọng, có tính đột phá, nhất là từ Đại hội VI đến nay.

    Trong thời kỳ đầu sau giải phóng, miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã nhấn mạnh thái quá vai trò “tích cực” của quan hệ sản xuất, dẫn đến chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Ngoài ra, do CNH trong nền kinh tế hiện vật (có trao đổi), không thừa nhận thị trường và cạnh tranh nên rất hạn chế trong việc tìm động lực phát triển LLSX từ khoa học và kỹ thuật.

    Bước vào thời kỳ đổi mới, chúng ta đã ngày càng khẳng định rõ: Phải từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Đại hội VIII xác định: Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đại hội IX xác định rõ thêm: Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.

    Qua tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã thảo luận và biểu quyết với đa số phiếu tán thành nội dung đặc trưng kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.

    Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.

    Đây là một bước bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 và các nghị quyết của Đảng từ sau đổi mới về vấn đề này.

    Như vậy, đường lối CNH của Đảng chuyển từ CNH gắn với quan niệm xây dựng QHSX XHCN đi trước một bước mở đường cho sự phát triển của LLSX, chuyển sang thực hiện ưu tiên phát triển LLSX hiện đại, đồng thời xây dựng QHSX tiến bộ phù hợp.

    * Thứ hai, về bước đi, tốc độ của công nghiệp hóa.

    Thời kỳ trước Đổi mới, Đảng đã chủ trương đẩy mạnh CNH, xây dựng một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp hiện đại, trù liệu thời gian CNH XHCN mất khoảng 20 năm… (ĐH IV).

    Thời kỳ đổi mới, Đảng xác định: quá trình CNH phải được tiến hành từng bước phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ chưa thể đẩy mạnh CNH, mà là tạo tiền đề cần thiết để đẩy mạnh CNH ở chặng đường tiếp theo (chủ trương đẩy mạnh CNH từ Đại hội VIII – 1996); cơ cấu kinh tế hợp lý với từng thời đoạn; con đường CNH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước…

    Tư duy CNH của Đảng thời đổi mới xác định: con đường CNH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại và qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.

    Như vậy, đường lối CNH chuyển từ CNH XHCN với cách làm nóng vội, bỏ qua các bước đi trung gian cần thiết, đã chuyển sang thực hiện CNH vừa có bước đi tuần tự, giai đoạn trước tạo tiền đề cho sự phát triển của giai đoạn sau theo trật tự tuyến tính, vừa cho phép phát triển “rút ngắn” trên cơ sở đi tắt, đón đầu các thành tựu phát triển nhảy vọt về khoa học và công nghệ của thế giới.

    * Thứ ba, xây dựng cơ cấu kinh tế (mối quan hệ giữa công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, nông nghiệp, kinh tế trung ương, kinh tế địa phương, sản xuất, phân phối, tiêu dùng); cơ chế và mô hình nền kinh tế trong quá trình CNH

    Quan điểm công nghiệp hoá và hiện đại hoá dựa trên nhận thức mới, khác với quan niệm trước đây về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa theo cơ cấu kinh tế khép kín, nhất thiết phải đi từ công nghiệp nặng.

    Thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là không ngừng đổi mới trang thiết bị, kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đạt tới năng suất lao động cao trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Cách làm phải phù hợp với điều kiện thực tế, tích cực nâng cao trình độ công nghệ và trang bị kỹ thuật trong nước, đồng thời tranh thủ tiếp nhận công nghệ và trang bị kỹ thuật mới từ bên ngoài. Trong điều kiện thiếu vốn, nhiều lao động, phải kết hợp công nghệ nhiều trình độ, vừa sử dụng và cải tiến công nghệ truyền thống, vừa tranh thủ tối đa công nghệ tiên tiến, kết hợp phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, làm quy mô vừa và nhỏ là chính, song không loại trừ quy mô lớn khi cần thiết và có hiệu quả. Đó là cơ sở để xác định bước đi của công nghiệp hoá trong cơ cấu kinh tế, giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp tư liệu sản xuất.

    Quan niệm mới về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải đẩy mạnh cách mạng khoa học và công nghệ, bao gồm cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và đưa được các khoa học đó vào cuộc sống, nhằm đổi mới công nghệ, kể cả công nghệ quản lý (cách nói cách mạng khoa học – kỹ thuật như lâu nay dễ dẫn tới coi nhẹ vai trò rất quan trọng của khoa học xã hội). Cái nền để nâng cao năng lực khoa học và công nghệ của đất nước là sự nghiệp giáo dục và đào tạo, vừa nâng cao dân trí, vừa chú trọng nhân tài. Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là một mặt rất quan trọng trong việc phát huy nhân tố con người, không thể coi như một yếu tố hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế hoặc như một chính sách về bảo đảm xã hội.

    Như vậy: 1- Từ chủ trương xác lập nóng vội cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, hiện đại hoá để đưa nước ta đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, có cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp và dịch vụ hiện đại; 2- Từ nền kinh tế “khép kín”, “hướng nội”, quan hệ chỉ khép kín trong  hệ thống XHCN, chuyển sang thực hiện một nền kinh tế mở đa dạng, đa phương phù hợp thông lệ quốc tế, hướng mạnh về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu; 3- Chuyển từ CNH thực hiện trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang tuân theo thị trường, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới thành một chỉnh thể hữu cơ, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.

    * Thứ tư, CNH, HĐH gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển nhanh, bền vững.

    Từ quan niệm CNH cổ điển chuyển sang quan niệm CNH, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, thực hiện các mục tiêu phát triển trước mắt phải đi đôi với yêu cầu không làm tổn hại đến khả năng phát triển trong tương lai (phát triển nhanh, bền vững, bảo vệ tài nguyên môi trường).

    Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp đẩy mạnh CNH, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, chính là làm cho mục tiêu này thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp, tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được, sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm nhằm đạt những thành tựu to lớn và vững chắc hơn trong việc thực hiện những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội lần thứ XI của Đảng thông qua.

    Ngoài ra, CNH còn có các đặc điểm được nhận thức rõ và nhấn mạnh hơn: Đẩy mạnh CNH, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Khoa học và công nghệ cũng là quốc sách hàng đầu, là động lực đẩy mạnh CNH, hiện đại hóa đất nước, từng bước phát triển kinh tế tri thức.

    * * *

    Nghiên cứu đường lối CNH, HĐH của Đảng Cộng sản Việt Nam và quá trình thực hiện đường lối đó trong giai đoạn hiện nay, đồng thời so sánh với trước thời kỳ đổi mới sẽ giúp chúng ta hiểu và nhận thức sâu sắc hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hiện trạng của Tổ quốc. Từ đó, thái đô tích hơn, hành động hiệu quả hơn, thể hiện cụ thể thực tế vào vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện tại cũng như trong tương lai..

    CNH bằng con đường như nào là đúng để đưa Việt Nam có sự phát triển cất cánh, thần kỳ? Làm sao phát huy cao bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại mới? Làm sao để một nước anh hùng nhưng còn nghèo như Tổ quốc thân yêu của chúng ta sớm khắc phục tình trạng tụt hậu, trở thành nước anh hùng, giàu mạnh và văn minh, đuổi kịp và sánh vai cùng các nước trung bình, rồi từng bước với các nước tiên tiến trên thế giới, như trước đây đã từ một nước thuộc địa trở thành một trong những nước đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc  – đó vẫn còn là câu hỏi, là thách thức lịch sử với mỗi công dân trách nhiệm.

    Trả lời
  2. Bạn Tham khảo

    Sự lạc hậu, kém phát triển của nước Việt Nam đã khiến cho quốc gia này không đủ sức mạnh duy trì, phát triển các quyền dân tộc, quyền con người. Hậu quả là, cuối thế kỷ XIX, nước Việt Nam mất độc lập, đại bộ phận nhân dân Việt Nam lầm than, cơ cực, mất tự do. Chính quyền đại diện cho người Việt Nam trong hệ thống chính trị thuộc địa nửa phong kiến đã không làm đúng chức năng đảm bảo an toàn và hạnh phúc cho người dân. Yêu cầu lịch sử đặt ra là phải tìm ra con đường cứu nước, thực hiện được giải phóng dân tộc, giải phóng con người, phải thiết lập được chính quyền đảm bảo tốt nhất sự an toàn và hạnh phúc của Nhân dân.

    Trước thách thức của lịch sử, nhân dân Việt Nam đã tiến hành giải phóng dân tộc, giải phóng con người bằng nhiều phong trào đấu tranh theo những con đường cứu nước khác nhau.

    Chúc bạn hok tốt !!!

    Trả lời

Viết một bình luận

Bí kíp giúp ba mẹ không biết tiếng Anh vẫn có thể dạy con học Tìm hiểu thêm