Vì sao nói thời vua lê thánh tông là thời kì phát triển hoàn thiện của chế độ phog kiến’ Giúp mik vs ạ

By Reagan

Vì sao nói thời vua lê thánh tông là thời kì phát triển hoàn thiện của chế độ phog kiến’
Giúp mik vs ạ

0 bình luận về “Vì sao nói thời vua lê thánh tông là thời kì phát triển hoàn thiện của chế độ phog kiến’ Giúp mik vs ạ”

  1. Về phát triển hành chính, ngay từ buổi đầu lên ngôi, Lê Thánh Tông nhanh chóng chấm đứt tình trạng chia rẽ của triều đình, khẩn trương tổ chức củng cố và xây dựng nền hành chính Đại Việt mạnh mẽ, táo bạo. Nhà nước phong kiến tập quyền qua các đời từ nhà Trần chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ.

    Đời vua Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành 6 bộ: Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước; Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo; Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh; Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp; Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày kiện cáo; Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền.

    Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Thái Tổ từ 5 đạo đổi thành 13 đạo (thừa tuyên). Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công – công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức.

    Về phát triển kinh tế, Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm các chính sách nhằm phát triển kinh tế như, sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, mở đồn điền. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển Đại Việt của Lê Thánh Tông đã được kiểm chứng qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông trực tiếp chấp bút và ban bố, như Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan thuế v.v…

    Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông cũng phát triển rực rỡ. Nghề in và làm giấy ở Đại Việt đạt một trình độ cao của thế giới thời bấy giờ. Số lượng sách in thời này khá đồ sộ. Đặc biệt nhất thời kỳ này là thành tựu trong công nghệ chế tạo vũ khí và đồ sắt chiếm ưu thế. Đồ gốm, sứ thời Lê sơ phát triển đạt được độ tinh xảo và hoa văn đẹp. Việc giao thương buôn bán đã chắp cánh cho đồ gốm thời này đi xa và hiện nay bộ sư tập về đồ gốm Lê sơ cũng rất phong phú.

    Thương mại và giao dịch buôn bán với các lân bang phát triển mạnh, cùng với bước chân viễn chinh xa xôi của đội quân đế chế Đại Việt. Để tạo thuận tiên cho việc mua bán Lê Thánh Tông đã từng khuyến dụ các quan rằng: “Trong dân gian hễ có dân là có chợ để lưu thông hàng hoá, mở đường giao dịch cho dân. Các xã chưa có chợ có thể lập thêm chợ mới. Những ngày họp chợ mới không đuợc trùng hay trước ngày họp chợ cũ để tránh tình trạng tranh giành khách hàng của nhau “. Chính nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Thăng Long 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay. Phường Yên Thái làm giấy, Phường Nghi Tàm dệt vải lụa, Phường Hà Tân nung vôi, Phường Hàng Đào nhuộm điều, Phường Ngũ Xá đúc đồng, Phường gạch và gốm sứ Bát Tràng và nhiều phường khác nữa, v.v…

    Về giáo dục. cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn. Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thảnh Tông là Tao Đàn chủ soái. Thời kỳ này, việc thi cử và học tập thường xuyên và rất nhiều tiến sĩ vả trạng nguyên đỗ đạt và thành danh. Đặc biệt ông rất tích cực trong cải tổ giáo dục, có những chính sách mới về thi cử vẩ tránh gian lận trong thi cử.

    Nhiều lần ông đích thân chấm bài làm và khảo lại các bài thi có nghi ngờ. Để có thêm một di sản tư liệu thế giới ở Việt Nam có công đóng góp quan trọng của Lê Thánh Tông, người đã khởi xướng lập bia Tiến sĩ và tiến hành cho dựng để ghi danh, tôn vinh những người tài và đức của dân tộc Đại Việt ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám và các thế hệ. Các triều đình sau này tiếp tục bổ sung các tấm bia vinh danh mới. Ở Trường đại học đầu tiên của xã hội phong kiến Việt Nam, trên một tấm bia đá, có ghi một danh sĩ nổi tiếng thời nhà Lê, đó là Thân Nhân Trung, người quê Việt Yên, Bắc Giang, ông có sớ dâng vua “Chiêu nạp hiền tài ” và cho rằng “Hiền tài  nguyên khí quốc gia “.

    Sự kiện này được khắc trên bia đá dựng thời Lê Thánh Tông, chứng tỏ ông là người rất trọng dụng nhân tài và thực tế đã đoàn kết được nhân tài để cùng phát triển đất nước. (Các danh nhân thời Lê Thánh Tông như Ngô Sĩ Liên với tác phẩm Đại Việt Sử ký toàn thư; Lương Thế Vinh với Toán pháp đại thành, Phan Phu Tiên với Bản thảo thực vật toát yếu, …). Bằng nhiều cách, Lê Thảnh Tông đã làm cho công việc giáo dục trở thành nếp. Ngoài trường Quốc Tử Giám và các viện lớn ra còn có các trường học ở các đạo, phủ, thừa với rất đông học trò. Các kỳ thi được các sĩ từ khắp nới hưởng ứng.

    Ve phát triển văn học, Lê Thánh Tông là một nhà thơ và phê bình văn học, vừa sáng tác văn thơ, vừa nghiên cứu, phê bình. Những trước tác của Hội Tao Đàn được ghi chép trong bộ sách Thiên Nam du hảo tập, và trong các sách Quỳnh uyển cửu ca, Minh hương cẩm , Văn minh cổ xúy, Chinh Tây kỳ hành viết bằng chữ Hán và Hồng Đức quốc âm thi tập, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn được viết bằng chữ Nôm. Trong đó, không chỉ ghi chép thơ văn, mà còn ghi chép về lý luận phê bình văn học, về lịch sử, kinh tế, quan chế, địa lý v.v…

    Lê Thánh Tông là người dẫn đầu phong trào mới này, cả về nghệ thuật thể hiện và tư tưởng triết học. Thánh Tông di cảo là dấu mốc quan trọng ghi nhận bước trưởng thành của truyện ký Đại Việt viết bằng chữ Hán, ra đời trước cả tập Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Lê Thánh Tông khuyến khích các quan lại và tự mình tích cực sử dụng chữ Nôm như một sự tự tôn và tự cường. Trong một bài thơ Nôm, Lê Thánh Tông tự trình bày mình: Trống dời canh còn đọc sách /chiêng xế bóng chúa thôi chầu.

    Năm 1464, Lê Thánh Tông đã rửa oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm thơ văn Nguyễn Trãi để lưu lại hậu thế, ông đã như tạc bia cho Nguyễn Trãi bằng câu thơ: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (dịch: Tâm hồn Ức trai soi sáng văn chương, có người dịch: Tao hồn Ức traí sáng tựa sao Khuê).

    Về luật pháp, bộ Quốc triều hình luật của nhà hậu Lê đã được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông, nên còn được gọi là Luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc loại sớm trên thế giới. Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của Nho giáo làm hệ tư tưởng.. chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc.

    Về quân sự, theo các sử gia, thì vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc, do tiếp thu các kỹ thuật chế tạo súng hỏa công cá nhân từ phương Tây và với số vũ khí thu được trước đây trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, kết hợp kỹ thuật vũ khí của Đại Việt thời nhà Hồ đã tạo thành một bộ vũ khí đa dạng và hùng mạnh. Lê Thánh Tông rất chú ý đến việc tích trữ lương thảo ở các vùng biên cương để sử dụng cho quân lương khi cần thiết. Một nghệ thuật làm lương khô thời Lê Thánh Tông được sử sách ghi lại là một kỹ thuật đặc biệt của Đại Việt, đó là đồ (hấp) thóc chín và sấy khô. Loại lương khô này có thể cất giữ vài năm không bị mất phẩm chất và rất tiện cho việc vận chuyển và sử dụng trong chiến tranh, đặc biệt là dùng cho quân đội viễn chinh. Nhà vua cải tổ quân đội mạnh mẽ về mặt tồ chức, trước đó quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ. Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương. 43 điều quân chính là luật quân đội Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.

    Trả lời

Viết một bình luận