viết bài văn phân tích khổ 2,3 của bài thơ nhớ rừng mình cần gấp cảm ơn

By Abigail

viết bài văn phân tích khổ 2,3 của bài thơ nhớ rừng
mình cần gấp cảm ơn

0 bình luận về “viết bài văn phân tích khổ 2,3 của bài thơ nhớ rừng mình cần gấp cảm ơn”

  1. Dàn bài

    1. Mở bài: GIới thiệu tác giả Thế Lữ và bài thơ Nhớ rừng. Giới thiệu khổ thơ thứ hai và khổ thơ thứ ba của bài

    2. Thân bài:

    _ Khổ hai: nỗi nhớ về rừng đại ngàn.

    _ Khổ ba: bức tranh tứ bình cùng muôn vàn xúc cảm trong chúa sơn lâm

    3. Kết bài:

    Cảm nghĩ của bản thân.

    Gửi bạn bài làm

    Văn học hiện đại Việt Nam gắn liền với sự đổi mới lớn lao của thời kì văn học, nền văn học. Thơ mới chính là bước cách tân của nghệ thuật thơ ca. Nhà thơ Thế Lữ là cây bút tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Sáng tác của ông, đặc biệt là Nhớ rừng với khổ hai, khổ ba, để lại trong mỗi chúng ta muôn vàn tâm trạng.

    Nỗi nhớ da diết về rừng đại ngàn của chúa sơn lâm được thể hiện ở trong khổ thơ thứ hai của bài: 

    “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
    Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
    Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
    Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
    Với khi thét khúc trường ca dữ dội”

    Những kỉ niệm xưa ùa về trong trí nhớ của con hổ vói niềm  thiết tha, đẹp đẽ. Nhà thơ Thế Lữ vô cùng thành công với những hình ảnh liệt kết như bóng cả, câu già, gió, đại ngàn.. Bức tranh rừng núi hiện lên sinh động và gắn với muôn ngàn những khao khát rạo rực trong chúa sơn lâm. Những bóng cả, cây già, những tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, ầm vang cả một khung trời và thế giới ấy rạo rực trong niềm vui sướng. Những khúc trường ấy là trường ca của sự sống, chiến công và hơn cả là không khí đại ngàn.  Giữa bầu không gian rộng lớn ấy, hổ vươn mình kiêu hãnh trong tâm thế, tư thế vị chúa tể: 

    “Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
    Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
    Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
    Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
    Là khiến cho mọi vật đều im hơi.”

    Quá khứ huy hoàng rực rỡ hiện lên trong tiếng thở dài ai oán, tiếc nuối. Vị chúa tể muôn loài khi xưa với bước đi dõng dạc, hiên ngang làm vạn vật e sợ và kính nể. Những bước chân của hổ cũng là bước chân của tự do, bước chân của quyền lực khám phá cuộc đời. Hình ảnh so sánh đượ dùng trong khổ thơ thật đẹp. Không chỉ có cái gai góc, chú hổ còn dẻo dai. Tấm thân dẻo dai, uyển chuyển vô cùng cùng sống, cùng hòa nhịp trong vũ khúc tự do: 

    “Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sức”.

    Thiên nhiên với cỏ cây, hoa lá làm hổ thêm đường bệ, đẹp đẽ và uy nghi. Vẻ đẹp ở đây chính là vẻ đẹp của cuộc sống của chúa tể sơn lâm. 

    Bức tranh của điều đẹp tươi, huy hoàng càng được thể hiện rõ nét trong khung cảnh tứ bình nơi núi rừng hoang vu, nguyên sơ với sự đường bệ của hổ:

    Nào đâu những đêm vàng bên bờ suôí

    Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan

    Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

    Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới

    Đâu những bình minh cây xanh nắng gội

    Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng

    Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

    Ta đợi chết, mảnh mặt trời gay gắt

    Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật

    Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu

    Bức tranh đêm trăng trong bài hiện lên với cảnh đẹp và thi vị vô cùng: 

    “Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

    Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?”

    Không gian tràn đầy màu sắc và ánh sáng. Đặc biệt hơn, vẻ đẹp bức tranh còn được tô điểm với suối. Không gian lung linh huyền ảo vô cùng. Tiếng suối róc rách, tiếng lòng thướt tha xúc cảm trong đêm làm xúc cảm như thêm đong đầy. Con hổ, chúa tể sơn lâm vươn mình trong làn sóng biếc ấy. HÌnh ảnh con hổ đứng bên bờ ngắm nhìn trong trạng thái say mồi, sảng khoái thưởng thức dòng suối mát trong khiến ta liên tưởng đến vị thi sĩ trong đêm. Hổ say mồi và tự ngắm nhìn mình trong làn suối. Thiên nhiên nơi rừng hoang vu với vẻ huyền bí và ngập tràn sức sống với màu vàng tươi của trăng đêm. Từ “say mồi”, chỉ với hai từ thôi, nhưng nhà thơ đã diễn tả vô cùng sống động và chân thực cái đẹp của cảnh đêm và hình ảnh thi sĩ núi rừng.

    Bức tranh thứ hai xuất hiện và bao trùm bài thơ là bức tranh ngày mưa: 

    “Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

    Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”

    Chúa sơn lâm  giờ đây không còn say sưa bên dòng suối. Khung cảnh ở đây có sự chuyển mình với “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”. Mưa giăng ngập tràn khắp lối khiến vạn vật rung chuyển và bừng lên sức sống. Chúa tể núi rừng hiên ngang, điềm tĩnh trong cái “lặng” mình. Nó cảm thấy bản thân mạnh mẽ và oai hùng trong nơi nó thuộc về. 

    Sự tươi mới, rộn ràng của bức tranh hiện lên đẹp tuyệt trong cảnh bình minh:

    “Đâu những bình minh cây xanh nắng gội

    Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”

    Bầu trời buổi sớm muôn phần đẹp tươi. Khung cảnh ấy trong trẻo với cây cối xanh tươi. Một từ “gội” được nhà thơ sử dụng vô cùng tinh tế. Sức sống bừng lên trong từng nhánh cây ngọn cỏ ấy là tiếng reo ca tưng bừng rộn rã của bầy chim. Giấc ngủ “tưng bừng” của “ta”- chúa sơm lâm vô cùng rực rỡ. Vẻ đẹp lúc này tươi mới, ngập tràn những vui thú, hạnh phúc với chúa sơm lâm. Mưa rào, nắng ấm đều ngọt nào khi chúa tể muôn loài được sống trong ca vang núi rừng rực rỡ. 

    Bức tranh về chiều lại gắn liền với những bi tráng rực rỡ. Hoàng hôn gõ cửa và làm mọi thứ đều soi màu trong nắng chiều rực rỡ, dữ dội. Bức tranh mang màu sắc mạnh mẽ vô cùng: 

    “Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

    Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”

    Cảnh tượng hiện lên rực rỡ với “chiều lênh láng máu sau rừng”. Gam màu nóng lúc này  trở thành gam màu chủ đạo của bức tranh. Phải chăng đó là màu của máu đỏ hay là màu củaánh nắng chiều rực rỡ?  Theo một lẽ tự nhiên, khi mặt trời khuất bóng thì vạn vật cũng chìm vào trong những nghỉ ngơi. Có thể muôn loài nghỉ ngơi, nhưng vị chúa tể lại đang chờ đón khoảnh khắc “chết mảnh mặt trời gay gắt” ấy nhằm thực hiện nỗi niềm khao khát lớn: 

    “Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

    Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu

    “Bí mật” trong lời thơ ấy là bí mật về sự sống, về cuộc đời này. Khát khao to lớn, khung cảnh hùng vĩ, nguy nga song là dĩ vãng hào hùng xót xa. Thế Lữ đã dùng rất nhiều hình ảnh, biện pháp tu từ như điệp ngữ “nào đâu”, “đâu những” cùng hàng loạt các câu hỏi tu từ nhằm diễn tả nỗi niềm tâm trạng: “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”. Lời than của con hổ cũng chính là nỗi niềm của nhà thơ nhưng cũng là nỗi lòng dân tộc và nỗi niềm khao khát tự do. 

    Hai khổ thơ thứ hai và thứ ba là dòng hồi tưởng của quá khứ đẹp tươi. Có lẽ, dòng thơ rộn ràng ấy cũng chính là dòng tâm trạng cuộn trào trong thi nhân với bao niềm hoài cảm. Để rồi, quá khứ đẹp tươi len lỏi mình trong thực tại tối tăm để cổ vũ con hổ trong khao khát tự do vô cùng, vô tận. 

    Trả lời

Viết một bình luận