Viết đoạn văn khoảng 200 chữ nói về công lao của trương định
By Delilah
Viết đoạn văn khoảng 200 chữ nói về công lao của trương định
0 bình luận về “Viết đoạn văn khoảng 200 chữ nói về công lao của trương định”
Trương Định hay Trương Công Định hoặc Trương Đăng Định, là võ quan Triều Nguyễn, và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859 – 1864, trong lịch sử Việt Nam.
rương Địnhsinh tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn,Quảng Ngãi(nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnhQuảng Ngãi). Cha ông làLãnh binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ uý ởGia Địnhdưới thời vuaThiệu Trị.
Năm1844, Trương Định theo cha vàoNam. Sau khi cha mất, ông ngụ ngay nơi cha đóng quân. Sau đó, ông kết hôn với bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện Tân Hòa (Gò Công Đôngngày nay).
Năm1850, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của tướngNguyễn Tri Phương, Trương Định xuất tiền ra chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền ở Gia Thuận (Gò Công), vì thế, ông đượcnhà Nguyễnbổ làmQuản cơ,hàm chánh lục phẩm
Tháng 2năm1859, quân Pháp đánh chiếmthành Gia Định. Sau đó, Trương Định đem quân đồn điền của mình lên đóng ở Thuận Kiều (Gia Định), và từng đánh thắng đối phương ởCây Mai,Thị Nghè…[2]
Đầu năm1861, Pháp tấn côngGia Địnhlần thứ hai, Trương Định đem quân phối hợp với binh của tướngNguyễn Tri Phươngphòng giữ chiến tuyến Chí Hòa. KhiĐại đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui vềGò Công, cùng Lưu Tiến Thiện, Lê Quang Quyền chiêu binh ứng nghĩa, trấn giữ vùngGia Định-Định Tường.
Ở đây, Trương Định tổ chức lại lực lượng, triển khai tác chiến trong các vùngGò Công,Tân An,Mỹ Tho,Chợ Lớn,Sài Gòn,Đồng Tháp Mườivà kéo dài đến tận biên giớiCampuchia.
Ngày19 tháng 8năm1864,Huỳnh Công Tấnphản bội dẫn đường cho quân Pháp bất ngờ bao vây đánh úp. Bản doanhĐám lá tối trời[7]thất thủ, Trương Định bị trọng thương (gãy xương sống)[8]. Để bảo toàn khí tiết, ông đã rút gươm tự sát tại Ao Dinh (Gò Công) vào rạng sáng ngày20 tháng 8năm1864[9]. Khi ấy, ông 44 tuổi.
Hay tin Trương Định tuẫn tiết, vuaTự Đứcsai truy tặng ông phẩm hàm, và năm1871lại cho lập đền thờ ông tại Tư Cung (Quảng Ngãi). Con ông làTrương Quyềnđã rút lên vùng Châu Đốc tiếp tục chống Pháp thêm 6 năm nữa.
Nhà thơNguyễn Đình Chiểuđã làm 12 bài thơ và một bàivăn tếđiếu ông. Trích giới thiệu một bài:
Bàn thờ Trương Định ở bên trong đềnTrong Nam, tên họ nổi như cồnMấy trận Gò Công nức tiếng đồnĐấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷHơi gươm thêm rạng vẻ huỳnh mônNgọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻQuả ấn Bình Tây đất vội chônNỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵLâm dâm ba chữ điếu linh hồn.
Ông trả lời Phan Thanh Giản về việc bãi binh chống Pháp: “Triều đình nghị hòa thì cứ nghị hòa còn việc của Định thì Định cứ làm. Định thà đắc tội với Triều đình chứ không nỡ ngồi nhìn giang san này chìm đắm…”
Tuyên bố của Trương Định gửi các quan ở Vĩnh Long, để tỏ ý ly khai với Nam triều (vì sau hòa ước Nhâm Tuất, vua Tự Đức ra lệnh ông phải bãi binh) vào tháng 2 năm 1863:
Muốn trở lại y như xưa, dân chúng ba tỉnh yêu cầu chúng tôi đứng đầu khởi nghĩa, chúng tôi không thể làm gì được khác. Chúng tôi chuẩn bị chiến đấu vào hướng Đông cũng như hướng Tây, chúng tôi chống đối và chiến đấu. Chúng tôi sẽ đánh ngã bọn giặc cướp…
Chúng ta thề sẽ đánh mãi và đánh không ngừng, khi ta thiếu tất cả sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm võ khí cho quân lính ta…
Trương Định hay Trương Công Định hoặc Trương Đăng Định, là võ quan Triều Nguyễn, và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859 – 1864, trong lịch sử Việt Nam.
rương Định sinh tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi). Cha ông là Lãnh binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ uý ở Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị.
Năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam. Sau khi cha mất, ông ngụ ngay nơi cha đóng quân. Sau đó, ông kết hôn với bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện Tân Hòa (Gò Công Đông ngày nay).
Năm 1850, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của tướng Nguyễn Tri Phương, Trương Định xuất tiền ra chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền ở Gia Thuận (Gò Công), vì thế, ông được nhà Nguyễn bổ làm Quản cơ, hàm chánh lục phẩm
Tháng 2 năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Sau đó, Trương Định đem quân đồn điền của mình lên đóng ở Thuận Kiều (Gia Định), và từng đánh thắng đối phương ở Cây Mai, Thị Nghè…[2]
Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần thứ hai, Trương Định đem quân phối hợp với binh của tướng Nguyễn Tri Phương phòng giữ chiến tuyến Chí Hòa. Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui về Gò Công, cùng Lưu Tiến Thiện, Lê Quang Quyền chiêu binh ứng nghĩa, trấn giữ vùng Gia Định-Định Tường.
Ở đây, Trương Định tổ chức lại lực lượng, triển khai tác chiến trong các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Campuchia.
Ngày 19 tháng 8 năm 1864, Huỳnh Công Tấn phản bội dẫn đường cho quân Pháp bất ngờ bao vây đánh úp. Bản doanh Đám lá tối trời[7] thất thủ, Trương Định bị trọng thương (gãy xương sống)[8]. Để bảo toàn khí tiết, ông đã rút gươm tự sát tại Ao Dinh (Gò Công) vào rạng sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864 [9]. Khi ấy, ông 44 tuổi.
Hay tin Trương Định tuẫn tiết, vua Tự Đức sai truy tặng ông phẩm hàm, và năm 1871 lại cho lập đền thờ ông tại Tư Cung (Quảng Ngãi). Con ông là Trương Quyền đã rút lên vùng Châu Đốc tiếp tục chống Pháp thêm 6 năm nữa.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã làm 12 bài thơ và một bài văn tế điếu ông. Trích giới thiệu một bài:
Bàn thờ Trương Định ở bên trong đềnTrong Nam, tên họ nổi như cồnMấy trận Gò Công nức tiếng đồnĐấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷHơi gươm thêm rạng vẻ huỳnh mônNgọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻQuả ấn Bình Tây đất vội chônNỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵLâm dâm ba chữ điếu linh hồn.
Ông trả lời Phan Thanh Giản về việc bãi binh chống Pháp: “Triều đình nghị hòa thì cứ nghị hòa còn việc của Định thì Định cứ làm. Định thà đắc tội với Triều đình chứ không nỡ ngồi nhìn giang san này chìm đắm…”
Tuyên bố của Trương Định gửi các quan ở Vĩnh Long, để tỏ ý ly khai với Nam triều (vì sau hòa ước Nhâm Tuất, vua Tự Đức ra lệnh ông phải bãi binh) vào tháng 2 năm 1863:
Muốn trở lại y như xưa, dân chúng ba tỉnh yêu cầu chúng tôi đứng đầu khởi nghĩa, chúng tôi không thể làm gì được khác. Chúng tôi chuẩn bị chiến đấu vào hướng Đông cũng như hướng Tây, chúng tôi chống đối và chiến đấu. Chúng tôi sẽ đánh ngã bọn giặc cướp…
Chúng ta thề sẽ đánh mãi và đánh không ngừng, khi ta thiếu tất cả sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm võ khí cho quân lính ta…