chỉ rõ những điểm khác nhau về cơ cấu dân số théo giới, theo độ tuổi, và quá trình đô thị hóa giữa nhóm nước phát triển và nho

chỉ rõ những điểm khác nhau về cơ cấu dân số théo giới, theo độ tuổi, và quá trình đô thị hóa giữa nhóm nước phát triển và nhóm nước đang phát triển? Vì sao hiện nay ở nhiều nước đang phát triển cần phaiỉ điều chỉnh quá trình đô thị hóa?

0 bình luận về “chỉ rõ những điểm khác nhau về cơ cấu dân số théo giới, theo độ tuổi, và quá trình đô thị hóa giữa nhóm nước phát triển và nho”

  1. Bài làm:

    Cơ cấu dân số theo giới ( %):
    Công thức:
    Tnn = D nam , D nữ.
    Trong đó:
    Tnn: tỉ số giới tính
    D nam: dân số nam
    D nữ: dân số nữ.
    Cơ cấu dân số theo giới là tỉ lệ tương quan giữa giới nam so với giới nữ hoặc so với tổng dân số.
    Cơ cấu dân số theo giới biến động theo thời gian và khác nhau ở từng nước, từng khu vực.
    Ảnh hưởng đến:
    Phân bố sản xuất.
    Tổ chức đời sống xã hội
    Hoạch định chính sách phát triển kinh tế – xã hội các quốc gia…
    Cơ cấu dân số theo tuổi:
    Khái niệm: Cơ cấu dân số theo tuổi là sự tập hợp những nhóm người sắp xếp theo những nhóm tuổi nhất định.
    Có 3 nhóm tuổi chính.
    Nhóm dưới tuổi lao động ( nhóm 1) 0 -14 tuổi.
    Nhóm tuổi lao động ( nhóm 2 ) 15 – 59 tuổi ( hoặc 64 tuổi).
    Nhóm trên tuổi lao động ( nhóm 3) 60 tuổi hoặc 65 tuổi trở lên.
    Các nước phát triển có cấu trúc dân số già, các nước đang phát triển có cấu trúc dân số trẻ.
    Tháp dân số:
    Có 3 kiểu tháp dân số cơ bản.
    Kiểu mở rộng.
    Kiểu thu hẹp.
    Kiểu ổn định.

    Bình luận
  2. 4. Yếu tố tác động ban đầu tới mức sinh là kết hôn, quá trình đô thị hóa và tâm lý ưa thích con trai
    • Phân tích cho thấy những yếu tố quan trọng nhất khiến
    một số tỉnh và thành phố có mức sinh thấp (TFR thấp
    hơn 1,8) trong những thập niên qua là do độ tuổi kết
    hôn tăng lên, tỷ lệ kết hôn giảm, và quá trình đô thị hóa.
    Phát triển kinh tế – xã hội nhanh chóng kéo theo quá
    trình đô thị hóa là điều kiện thuận lợi cho giảm sinh. Tuy
    nhiên, yếu tố văn hóa như thích con trai đóng vai trò
    quan trọng quyết định mức sinh và tạo ra những khác
    biệt về tỷ lệ sinh ở các tỉnh, vùng miền, và nhóm xã hội.
    • Phân tích hồi quy cũng chỉ ra rằng phụ nữ đã sinh 2 con
    gái có xác suất sinh con thứ ba cao hơn khoảng 2,5 lần
    so với phụ nữ đã có con trai. Thậm chí với phụ nữ đã có
    1 con trai và 1 con gái, xác suất sinh con thứ ba vẫn cao
    hơn hẳn so với phụ nữ đã có 2 con trai. Tư tưởng thích
    con trai không chỉ làm tỷ số giới tính khi sinh tăng mà
    còn làm tăng TFR ở một số vùng miền và một số nhóm
    xã hội ở Việt Nam.
    KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
    ©UN Viet Nam/Aidan Dockery
    QUỸ DÂN SỐ LIÊN HỢP QUỐC TẠI VIỆT NAM
    Địa chỉ: Ngôi Nhà Xanh Liên Hợp Quốc (GOUNH), 304 Kim Mã, Quận Ba Đình, Hà Nội
    ĐT: +84 4 38500 100 | Fax: +84 4 3726 5220 | Web: http://www.vietnam.unfpa.org
    CÁC XU HƯỚNG, NHỮNG KHÁC BIỆT VÀ YẾU TỐ
    TÁC ĐỘNG ĐẾN MỨC SINH Ở VIỆT NAM: BẰNG
    CHỨNG TỪ CÁC CUỘC TỔNG ĐIỀU TRA DÂN SỐ VÀ
    ĐIỀU TRA DÂN SỐ VÀ NHÀ Ở GIỮA KỲ NĂM 2014
    Con số và Thực tế
    • Mức sinh ở Việt Nam đang giảm dần
    trong những thập kỷ gần đây và tương
    đối ổn định ở gần mức sinh thay thế.
    Tổng tỷ suất sinh (TFR) năm 2009 là
    2,09.
    • Tổng tỷ suất sinh (TFR) của khu vực
    nông thôn giảm mạnh, từ 4,26 con/phụ
    nữ vào năm 1989 xuống còn 2,03 vào
    năm 2009, và 2,21 vào năm 2014.
    • Số liệu từ cuộc Điều tra Dân số và Nhà
    ở giữa kỳ năm 2014 tiếp tục khẳng định
    phụ nữ có xu hướng kết hôn muộn hơn
    và sinh con ít hơn.
    • Số tỉnh và thành phố có TFR dưới 1,8
    tăng từ 5 vào năm 1999 lên 8 vào năm
    2009 và 11 vào năm 2014.
    • Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi của phụ
    nữ trong độ tuổi 15-19 (ASFR15) tăng từ
    23,9‰ vào năm 2009 lên đến 30‰ vào
    năm 2014.
    Bản tóm tắt này cung cấp một số thông tin chính về những
    thay đổi mức sinh ở Việt Nam dựa trên kết quả phân tích số
    liệu mẫu từ các cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam
    được thực hiện vào các năm 1989, 1999, 2009 và Điều tra
    Dân số và Nhà ở giữa kỳ năm 2014. Bản thông tin tóm tắt này
    cũng đưa ra một số khuyến nghị để xây dựng những chính
    sách phù hợp với mức sinh ở Việt Nam.
    Mức sinh là một trong những yếu tố chính ảnh hưởng đến
    quy mô và tốc độ tăng dân số vì nó có tác động trực tiếp đến
    tăng dân số tự nhiên. Thông tin về mức sinh, các xu hướng
    và những khác biệt được theo các đặc điểm kinh tế-xã hội
    của dân số chính là thông tin quan trọng cho các nhà hoạch
    định chính sách và cán bộ quản lý chương trình trong việc xây
    dựng, giám sát và đánh giá việc thực hiện các chính sách và
    chương trình phát triển kinh tế-xã hội bao gồm cả chính sách
    về dân số và sức khỏe sinh sản.
    • Việt Nam đã duy trì TFR ở mức sinh thay thế trong hơn
    10 năm qua và đây là xu thế bền vững, tuy nhiên TFR
    có nhiều khả năng sẽ giảm do ảnh hưởng của sự phát
    triển kinh tế – xã hội bao gồm cả quá trình đô thị hóa và
    công nghiệp hóa. Hiện tại, TFR tại một số tỉnh và thành
    phố đang rất thấp. Vì thế, các biện pháp kiểm soát sinh
    sản không còn cần thiết trong chính sách dân số ở Việt
    Nam và thậm chí còn có tác động xấu đến phát triển
    kinh tế – xã hội nếu như những chính sách này tiếp tục
    được duy trì thực hiện.
    • Để duy trì TFR ở mức sinh thay thế – mức sinh lý tưởng
    có lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước, các
    chính sách và chương trình dân số nên tập trung vào
    cung cấp thông tin và phương tiện cho các cá nhân và
    các cặp vợ chồng để họ có thể thực hiện thành công
    những lựa chọn sinh sản của mình. Việt Nam cần nỗ
    lực hơn nhằm cung cấp các dịch vụ sức khỏe sinh sản
    có chất lượng, bao gồm cả kế hoạch hóa gia đình, và
    nâng cao trình độ học vấn, đặc biệt cho nhóm dân số
    bị thiệt thòi. Cách tiếp cận này phù hợp với những cam
    kết của chính phủ tới những nguyên tắc cơ bản của hội
    nghị dân số và phát triển (ICPD).
    • Chính phủ và các bên liên quan cần tiếp tục thúc đẩy
    các chương trình và chính sách nhằm cải thiện vị thế
    của phụ nữ, loại bỏ hành vi lựa chọn giới tính và giảm
    bất bình đẳng giới. Điều này sẽ giúp giảm mất cân
    bằng giới tính khi sinh.
    • Các chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình cũng
    nên chú ý đến vấn đề kết hôn sớm để giảm thiểu những
    rủi ro về sức khỏe cho cả bà mẹ và trẻ em, và tăng
    cường các cơ hội giáo dục và phát triển nghề nghiệp
    cho phụ nữ. Cần phải đẩy mạnh các chương trình giáo
    dục và truyền thông với sự tham gia của thanh niên, vị
    thành niên và các nhóm dân số bị thiệt thòi, đặc biệt là
    các nhóm dân tộc thiểu số để nâng cao nhận thức của
    họ về nguy cơ mang thai và nuôi con ở độ tuổi vị thành
    niên đối với sức khỏe của cả trẻ em và phụ nữ.
    • Với xu hướng nhân khẩu học quan trọng này, đặc biệt
    Việt Nam đang ở thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” hay còn
    được gọi là “cửa sổ cơ hội dân số”, và bước vào thời
    kỳ già hóa dân số, và đồng thời mất cân bằng giới tính
    khi sinh vẫn đang diễn ra, đã đến lúc Việt Nam cần thay
    đổi các chính sách dân số theo hướng dân số và phát
    triển bền vững.
    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    Tổng cục Thống kê và Quỹ dân số Liên hợp quốc (2016). Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ 2014. Mức sinh ở Việt Nam:
    Những khác biệt, xu hướng và yếu tố tác động. Nhà xuất bản Thông tấn.
    ©UNFPA Viet Nam/ Nguyen Minh Duc
    THÔNG TIN TÓM TẮT
    4 1
    3. Mức sinh của nhóm phụ nữ các dân tộc thiểu số ở tuổi vị thành niên vẫn còn cao
    • Tỷ suất sinh đặc trưng theo nhóm tuổi của phụ nữ trong
    độ tuổi 15-19 (ASFR15) là một chỉ số quan trọng phản
    ánh nguy cơ về sức khỏe của bà mẹ và trẻ em khi người
    mẹ sinh con ở tuổi vị thành niên, điều đó cũng hạn chế
    cơ hội nâng cao trình độ học vấn và phát triển nghề
    nghiệp của phụ nữ. Giảm tỷ lệ sinh của phụ nữ ở độ tuổi
    vị thành niên, vì thế luôn là một trong những mục tiêu
    của các chính sách chăm sóc sức khỏe, chính sách dân
    số và kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam. Trong vòng 25
    năm qua (1989-2014), mặc dù nhìn chung tổng TFR
    đã giảm đáng kể nhưng ASFR15 không những không
    giảm mà còn tăng nhẹ trong thời kỳ 2009-2014 và đạt
    mức 30‰ trong năm 2014. Tuy nhiên, ASFR15 tại khu
    vực thành thị luôn thấp hơn khu vực nông thôn (Hình
    5). Phân tích sâu cho thấy ASFR15 tăng không chỉ do
    tỷ lệ kết hôn của nữ ở độ tuổi vị thành niên tăng, mà còn
    chủ yếu là do sự gia tăng đáng kể ASFR15 của phụ nữ
    kết hôn ở nhóm tuổi 15-19 trong cùng kỳ.
    • Trình độ học vấn và điều kiện sống của của các hộ gia
    đình cũng là hai yếu tố quan trọng có liên quan đến
    mức sinh của phụ nữ nhóm tuổi 15-19. ASFR15 giảm
    khi trình độ học vấn và điều kiện sống của họ tăng lên.
    Sự khác biệt này cũng được thể hiện giữa các nhóm
    dân tộc. Đáng chú ý nhất, ASFR15 của nhóm dân tộc
    Mông (149‰ vào năm 2014) đã tăng khoảng 6-7 lần
    so với ASFR15 của dân tộc Kinh. ASFR15 tăng cao
    nhất trong nhóm dân tộc Mông – gần như gấp đôi trong
    giai đoạn 1989-2014 – tiếp theo đó là dân tộc Tày.
    Mông là 3,65 con/phụ nữ, cao hơn so với dân tộc Kinh
    (2,02), Tày (2,26), Thái (2,36), Khơ Me (2,14), Mường
    (2,36) và các nhóm dân tộc khác (2,32) (Hình 2).
    • Trình độ học vấn của phụ nữ là yếu tố quan trọng quyết
    định mức sinh. Tuy nhiên ảnh hưởng của yếu tố này đã
    giảm dần trong những năm qua do kiến thức về phòng
    tránh thai đã được phổ biến rộng rãi hơn và hầu hết các
    gia đình đều có thể dễ dàng tiếp cận các dịch vụ này.
    Hình 3 thể hiện sự khác biệt rõ ràng trong TFR phân
    chia theo trình độ học vấn của phụ nữ: nhóm có trình
    độ học vấn cao hơn có mức sinh thấp hơn và ngược
    lại. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng cần lưu ý là
    sự khác biệt này đã giảm đáng kể trong thời gian qua
    và khoảng cách giữa các nhóm đã thu hẹp đáng kể.
    Trên thực tế, trong năm 2014, TFR của nhóm có trình
    độ “dưới tiểu học” là 2,34, vẫn là mức cao nhất nhưng
    chỉ nhỉnh hơn một chút so với các nhóm có trình độ học
    vấn cao hơn (với TFR từ 2,1).
    • So sánh TFR trong năm nhóm phụ nữ có điều kiện
    sống khác nhau cũng cho kết quả tương tự: sự khác
    biệt về mức sinh xét theo điều kiện sống1
     cũng đã thu
    hẹp dần trong thời gian qua (Hình 4). Hai nhóm có điều
    kiện sống cao nhất và TFR thấp nhất năm 1999 lại có
    TFR tăng trong 15 năm qua. Trái lại, nhóm có “điều
    kiện sống thấp” và TFR ban đầu cao lại có TFR giảm
    liên tục (mặc dầu đang ở ngưỡng 2,34, nhóm này vẫn
    là nhóm có TFR cao nhất).
    1,0
    1,5
    2,0
    2,5
    3,0
    3,5
    4,0
    4,5
    5,0
    5,5
    1989
    1990
    1991
    1992
    1993
    1994
    1995
    1996
    1997
    1998
    1999
    2000
    2001
    2002
    2003
    2004
    2005
    2006
    2007
    2008
    2009
    2010
    2011
    2012
    2013
    2014
    TFR
    Dưới tiểu học
    Tiểu học
    Trung học cơ sở
    Trung học phổ thông
    Trên THPT
    1,0
    1,5
    2,0
    2,5
    3,0
    3,5
    4,0
    1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
    TFR
    Thấp
    Dưới TB
    Trung bình
    Trên TB
    Cao
    12,8 14,3
    11.8 13,7
    29,1
    36,5
    29,6
    38,1
    25,7
    31,1
    23,9
    30,1
    0,0
    5,0
    10,0
    15,0
    20,0
    25,0
    30,0
    35,0
    40,0
    1989 1999 2009 2014
    Thành thị
    Nông thôn
    Chung
    ASFR(‰)
    Hình 4: TFR theo điều kiện sống
    1,0
    1,5
    2,0
    2,5
    3,0
    3,5
    4,0
    4,5
    5,0
    5,5
    1989
    1990
    1991
    1992
    1993
    1994
    1995
    1996
    1997
    1998
    1999
    2000
    2001
    2002
    2003
    2004
    2005
    2006
    2007
    2008
    2009
    2010
    2011
    2012
    2013
    2014
    TFR
    Dưới tiểu học
    Tiểu học
    Trung học cơ sở
    Trung học phổ thông
    Trên THPT
    1,0
    1,5
    2,0
    2,5
    3,0
    3,5
    4,0
    1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
    TFR
    Thấp
    Dưới TB
    Trung bình
    Trên TB
    Cao
    12,8 14,3
    11.8 13,7
    29,1
    36,5
    29,6
    38,1
    25,7
    31,1
    23,9
    30,1
    0,0
    5,0
    10,0
    15,0
    20,0
    25,0
    30,0
    35,0
    40,0
    1989 1999 2009 2014
    Thành thị
    Nông thôn
    Chung
    ASFR(‰)
    Hình 5. ASFR15 chia theo nông thôn/ thành thị, 1989- 2014
    CÁC PHÁT HIỆN CHÍNH
    1. Mức sinh giảm và đang được duy trì ổn định
    gần ở mức sinh thay thế trong hơn một thập
    kỷ qua
    Tổng tỷ suất sinh (TFR) của Việt Nam giảm mạnh từ những
    năm 1990 cho đến đầu những năm 2000 và sau đó duy trì
    ổn định ở gần mức sinh thay thế trong hơn 10 năm qua. Kết
    quả này phản ánh sự thành công của các chương trình kế
    hoạch hóa gia đình. Mô hình gia đình 2 con đã trở nên phổ
    biến, trừ ở một số vùng các dân tộc thiểu số và các tỉnh kém
    phát triển hơn như Điện Biên, Lai Châu, Hà Tĩnh và Kon
    Tum, nơi TFR vẫn cao hơn 3,0 vào năm 2014. Xu hướng
    giảm này cho thấy Việt Nam đã trải qua thời kỳ quá độ dân
    số từ mức sinh tự nhiên cao xuống mức sinh thấp nhờ việc
    áp dụng rộng rãi và hiệu quả hơn các dịch vụ kế hoạch hóa
    gia đình.
    2. Có sự khác biệt đáng kể về mức sinh giữa
    các vùng miền và nhóm dân tộc
    • Có sự khác biệt lớn về mức sinh giữa các khu vực thành
    thị và nông thôn, các tỉnh và thành phố cũng như giữa các
    nhóm dân tộc. Số liệu tại Hình 1 cho thấy sự khác biệt về
    mức độ và tốc độ giảm tỷ lệ sinh giữa khu vực thành thị
    và nông thôn qua các giai đoạn 1989-2014. Dân số tại
    khu vực thành thị chiếm một tỷ lệ dân số tương đối nhỏ
    (33%) so với dân số cả nước. Vì vậy, mức sinh giảm chủ
    yếu do giảm mức sinh ở khu vực nông thôn.
    • Trong vòng 25 năm qua (1989-2014), TFR đã giảm ở 6
    vùng kinh tế – xã hội, tuy nhiên mức giảm có khác biệt
    đáng kể giữa các vùng. TFR giảm nhanh nhất tại khu vực
    Tây Nguyên từ gần 6 con/phụ nữ vào năm 1989 xuống
    còn 2,3 con vào năm 2014. TFR tại vùng Đồng bằng sông
    Hồng sau khi giảm nhanh trong giai đoạn 1989-1999 đã
    tăng nhẹ trở lại từ 1,98 vào năm 1999 lên 2,30 vào năm
    2014.
    • Tương tự, có khác biệt lớn về TFR giữa các tỉnh và
    thành phố và biến động theo thời gian. Tất cả 11 tỉnh
    và thành phố có TFR dưới 1,8 vào năm 2014 đều nằm
    ở khu vực phía Nam: thành phố Hồ Chí Minh, Bình
    Dương, Bình Thuận, Hậu Giang, Cà Mau, Sóc Trăng,
    Long An, Khánh Hòa, Đồng Nai, Tây Ninh và Tiền
    Giang. Đặc biệt, TFR ở thành phố Hồ Chí Minh và Bình
    Dương rất thấp, ở mức 1,39 và 1,44 năm 2014.
    • Sự khác biệt về mức sinh giữa các nhóm dân tộc thiểu
    số cũng đã thu hẹp đáng kể trong 25 năm qua. TFR của
    dân tộc Mông đã giảm mạnh, nhưng vẫn cao hơn so với
    các nhóm dân tộc khác. Năm 2014, TFR của dân tộc 

    Bình luận

Viết một bình luận