nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam mang bản chất của giai cấp
0 bình luận về “nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam mang bản chất của giai cấp”
Quy định này của Hiến pháp đã khẳng định rõ bản chất của Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ nhân dân, thể hiện quyền lực nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà biểu hiện ở sự kết hợp hài hoà giữa tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân dân: Đó là nhà nước do giai cấp công nhân lãnh đạo, đề cao tinh thần đoàn kết rộng rãi toàn dân, đảm bảo các quyền tự do dân chủ và thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Tính chất này của nhà nước tiếp tục được ghi nhận và phát triển trong các hiến pháp sau đó.
Hiến pháp năm 1959 khẳng định nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một nước dân chủ nhân dân (Điều 2), một nhà nước thống nhất gồm nhiều dân tộc (Điều 3). Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4). Tất cả các cơ quan nhà nuớc đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân (Điều 6). Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân (Điều 7). Như vậy, Hiến pháp năm 1959 đã khẳng định rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước trước Tổ quốc và nhân dân, ghi rõ phương thức thực hiện quyền lực nhân dân, xác lập chế độ dân chủ và chuyên chính với mọi hành động xâm hại tới chế độ dân chủ và quyền lực của nhân dân.
Hiến pháp năm 1980 khẳng định bản chất Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản… thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động (Điều 2). Tất cả các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân, phát huy dân chủ chủ xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền (Điều 8). Như vậy, Hiến pháp năm 1980 đã quy định một cách mạnh mẽ và toàn diện hơn về bản chất và mục tiêu của Nhà nước ta. Đồng thời, ừong Chương I, Hiến pháp năm 1980 còn ghi nhận những nguyên tắc và quy định quan trọng xác lập những mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị-xã hội, bảo đảm cho việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước phù hợp với bản chất đó (trong các điều 4, 5, 7, 8, 12,13).
Hiến pháp năm 1992 và những sửa đổi, bổ sung năm 2001 (Theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992) đã ghi nhận một cách đầy đủ, sâu sắc bản chất và mục tiêu của Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quy định này của Hiến pháp đã khẳng định rõ bản chất của Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ nhân dân, thể hiện quyền lực nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà biểu hiện ở sự kết hợp hài hoà giữa tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân dân: Đó là nhà nước do giai cấp công nhân lãnh đạo, đề cao tinh thần đoàn kết rộng rãi toàn dân, đảm bảo các quyền tự do dân chủ và thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Tính chất này của nhà nước tiếp tục được ghi nhận và phát triển trong các hiến pháp sau đó.
Hiến pháp năm 1959 khẳng định nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một nước dân chủ nhân dân (Điều 2), một nhà nước thống nhất gồm nhiều dân tộc (Điều 3). Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4). Tất cả các cơ quan nhà nuớc đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân (Điều 6). Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân (Điều 7). Như vậy, Hiến pháp năm 1959 đã khẳng định rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước trước Tổ quốc và nhân dân, ghi rõ phương thức thực hiện quyền lực nhân dân, xác lập chế độ dân chủ và chuyên chính với mọi hành động xâm hại tới chế độ dân chủ và quyền lực của nhân dân.
Hiến pháp năm 1980 khẳng định bản chất Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản… thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động (Điều 2). Tất cả các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân, phát huy dân chủ chủ xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền (Điều 8). Như vậy, Hiến pháp năm 1980 đã quy định một cách mạnh mẽ và toàn diện hơn về bản chất và mục tiêu của Nhà nước ta. Đồng thời, ừong Chương I, Hiến pháp năm 1980 còn ghi nhận những nguyên tắc và quy định quan trọng xác lập những mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị-xã hội, bảo đảm cho việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước phù hợp với bản chất đó (trong các điều 4, 5, 7, 8, 12,13).
Hiến pháp năm 1992 và những sửa đổi, bổ sung năm 2001 (Theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992) đã ghi nhận một cách đầy đủ, sâu sắc bản chất và mục tiêu của Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
là bản chất và giai cấp của các địa vị cấp cao trong xã hội hiện nay
`Go od luck!`