nêu quan hệ giữa nga-việt từ 1975 đến nay có từng ý để làm sơ đồ tư duy ạ

By Elliana

nêu quan hệ giữa nga-việt từ 1975 đến nay có từng ý để làm sơ đồ tư duy ạ

0 bình luận về “nêu quan hệ giữa nga-việt từ 1975 đến nay có từng ý để làm sơ đồ tư duy ạ”

  1. Nước Việt Nam non trẻ phải đối thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa.

    Ngày 22-9-1945 – 20 ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mật điện cho I.V. Stalin (qua Đại sứ Liên Xô A.E.Bogomolov tại Pháp), thông báo về sự ra đời của Chính phủ cách mạng ở Việt Nam:[3]

    Bức mật điện đầu tiên Liên Xô nhận được từ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (22-9-1945)

    Kính gửi đồng chí Stalin. Moksva.

    Chúng tôi xin thông báo với Ngài rằng Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập với Chủ tịch là Hồ Chí Minh. Ngày 25 – 8, Hoàng đế Bảo Đại thoái vị và chuyển giao chính quyền cho Chính phủ mới được toàn dân ủng hộ.

    Trong khi đó, do hệ thống đê điều bị phá vỡ, một nửa Bắc Bộ bị ngập lụt, gây thiệt hại to lớn, dân bắt đầu chết đói. Chúng tôi xin Ngài giúp đỡ ở mức độ có thể.

    Trân trọng. Hồ Chí Minh

    Nguồn: Архив внешней политики Российской Федерации (АВП РФ), ф. 0136, оп. 29, п.197, д. 31, л.187.

    Bức điện trên và một loạt các bức điện khác được gửi trong tháng 9,10/1945 đều không được hồi âm. Theo Bukharkin, “Matxcova tiếp nhận những bức điện khẩn của lãnh đạo Việt Nam với thái độ khá dè dặt”.[4] Vấn đề Đông Dương đã không được ưu tiên bởi Moskva như vấn đề phương Tây sau chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời, Stalin “không muốn làm suy yếu Đảng Cộng sản Pháp khi ủng hộ cuộc chiến giành độc lập ở Đông Dương”, vì thế, Stalin đã “khoán” cho Trung Quốc nhiệm vụ hỗ trợ Hồ Chí Minh và Việt Minh. Maurice Thorez, lãnh đạo Cộng sản Pháp, từng nói rằng “Stalin không tin tưởng nhóm của Hồ Chí Minh”. Thorez nói rằng Hồ Chí Minh đã đi quá xa trong quan hệ với Mỹ và tình báo Anh. Hơn thế nữa, Stalin không vui khi Hồ Chí Minh không chịu nghe lời mình.[5]

    Sau khi được Trung Quốc đặt quan hệ ngoại giao (18-1-1950), Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Bắc Kinh (21-1-1950). Nhân dịp này, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ Trung Quốc thông báo cho Stalin biết Hồ Chí Minh đang thăm Trung Quốc và đề nghị được gặp Stalin để thông báo cho Chính phủ Liên Xô biết về tình hình cách mạng Việt Nam.[6]

    Ngày 23-1-1950, Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám thay mặt Chính phủ Việt Nam gửi công hàm cho Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô, đề nghị hai nước kiến lập quan hệ ngoại giao chính thức và trao đổi đại sứ. Mao Trạch Đông, lúc đó đang đàm phán với Stalin để ký Hiệp ước Hữu nghị, Đồng minh và Tương trợ Trung – Xô tại Moskva, đã đề nghị Stalin mời Hồ Chí Minh tới Moskva để bàn về việc hợp tác Xô – Việt. Stalin đã miễn cưỡng chấp nhận điều này và ngày 30-1-1950, Moskva chính thức công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[5] Quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Liên Xô được lên cấp đại sứ vào tháng 4 năm 1952.[7]

    Từ năm 1950 trở đi, Liên Xô bắt đầu viện trợ cho Việt Nam. Số lượng hàng đầu tiên gồm “pháo cao xạ 37 ly, một số xe vận tải môlôtôva và thuốc quân y”. Nhìn chung, nếu từ tháng 5-1950 đến tháng 6-1954, Việt Nam nhận được 21.517 tấn hàng viện trợ quốc tế với tổng trị giá 54 triệu rúp từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác, thì trong đó “toàn bộ pháo cao xạ 37 ly- 76 khẩu, toàn bộ hỏa tiễn (cachiusa), toàn bộ số tiểu liên K50, phần lớn số ôtô vận tải 685 trên tổng số 745 chiếc và một số lượng lớn thuốc kháng sinh ký ninh là của Liên Xô”.[8]

    Báo chí Việt Nam luôn ca ngợi sự khăng khít trong quan hệ giữa hai nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói:[9]

    “Đối với Lênin, đối với Cách mạng Tháng Mười, đối với Đảng Cộng sản, Chính phủ Liên Xô và nhân dân Xô Viết, chúng ta ‘Uống nước phải nhớ nguồn.”

    Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng nói:

    “Nhân dân Việt Nam hiểu sâu sắc rằng mỗi bước đi lên, mỗi chặng đường thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với những sự kiện trọng đại diễn ra trên đất nước Liên Xô.”

    Trong giai đoạn từ năm 1978 đến giữa những năm 1980, Liên Xô đã cung cấp các khoản viện trợ từ 700 triệu đến 1 tỷ USD viện trợ hàng năm cho Việt Nam. Các viện trợ bao gồm các khoản cho vay, tín dụng thương mại, đào tạo kỹ thuật, các dự án hỗ trợ, trợ giá… Toàn bộ các cơ sở công nghiệp của Việt Nam sau chiến tranh đã được khôi phục và xây dựng bởi sự giúp đỡ của người Liên Xô.

    Các khoản viện trợ của Liên Xô đến Việt Nam tăng vọt khi Việt Nam gia nhập khối Comecon, một tổ chức kinh tế của các quốc gia khối XHCN bao gồm Liên Xô, Bulgaria, Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan và Romania. Trong một nghiên cứu đã được công bố bởi Thư viện Quốc hội Nga (Library of Congress), các khoản viện trợ kinh tế của Liên Xô cho Việt Nam nằm trong khoảng 700 triệu đến 1 tỷ USD trong năm 1978. Cho đến giữa những năm 1980, khi Liên Xô phải đối mặt với rất nhiều vấn đề, họ vẫn dành cho Việt Nam khoản viện trợ 1 tỷ USD hàng năm.[10]

    Sau sự kiện Liên Xô tan rã, mối quan hệ lại được tạo dựng giữa Việt Nam  Liên bang Nga, quốc gia kế tục Liên Xô.

    Ngày 27 tháng 12 năm 1991 Việt Nam tuyên bố công nhận Nga là quốc gia thừa kế Liên Xô, mặc dù tổng thống Nga Boris Yeltsin vào ngày 29 tháng 8 đã ra lệnh cấm tất cả các hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô, sau cuộc đảo chính Xô viết năm 1991.

    Tình hình hiện nay

    Ngày 16/6/1994, Việt Nam và Nga đã ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị. Tháng 3/2001, Việt Nam và LB Nga đã xác lập mối quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Vladimir Putin. LB Nga là nước đầu tiên Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác chiến lược.[11]

    Tháng 8 năm 1998 Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã thăm chính thức Liên bang Nga. Hai bên đã khẳng định sự mong muốn phát triển quan hệ song phương và đã ký Tuyên bố chung Nga-Việt.

    Tổng thống Vladimir Putin và chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết năm 2006

    Tháng 9 năm 2000 Thủ tướng Phan Văn Khải đã thăm chính thức Nga, ký các hiệp định liên Chính phủ về giải quyết nợ của Việt Nam vay trước đây trước Nga, về hợp tác liên khu vực, v.v… Năm 2000, chính phủ Nga quyết định xóa 85% khoản nợ trị giá 11 tỷ USD mà Việt Nam còn nợ Liên Xô. 15% còn lại (1,65 tỷ USD) được Nga ưu đãi, cho chi trả dần trong 23 năm, dưới hình thức các khoản đầu tư. [12]

    Từ 28 tháng 2 đến 2 tháng 3 năm 2001 đã diễn ra chuyến thăm chính thức Hà Nội của Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin. Đã ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược, nghị định thư liên chính phủ về việc rà soát cơ sở điều ước-pháp lý và hiệu lực các hiệp ước và hiệp định song phương, và các văn kiện ngành khác.

    Từ 26 đến 28 tháng 3 năm 2002 Chủ tịch Chính phủ Liên bang Nga M. M. Kasiyanov thăm chính thức Hà Nội, hội đàm với Thủ tướng Phan Văn Khải và Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh.[13]

    Hai nước duy trì cơ chế Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế – thương mại và khoa học – kỹ thuật đồng thời thành lập Hội đồng Doanh nghiệp Việt Nam – Liên Bang Nga nhằm trao đổi biện pháp tăng cường hợp tác và hỗ trợ xúc tiến thương mại, đầu tư cho doanh nghiệp hai nước.

    Năm 2007, Việt Nam và Nga đã công nhận lẫn nhau có nền kinh tế thị trường, tạo thêm điều kiện cho doanh nghiệp của nhau thâm nhập thị trường. Gần 5% con số chính thức người Việt tại Nga là sinh viên theo học bằng học bổng của chính phủ Nga.[14]

    Thương mại song phương hai nước đã đạt tới 550 triệu USD vào năm 2001; Nga xuất khẩu sang Việt Nam máy móc và thép; trong khi Việt Nam xuất khẩu sang Nga lúa gạo và vải vóc. Hai nước cũng giữ vững mối quan hệ trong lĩnh vực năng lượng với việc liên doanh Vietsovpetro khai thác dầu thô tại mỏ Bạch Hổ.[15]

    Trả lời

Viết một bình luận