1. Tại sao nói, Cách mạng tư sản Anh mang tính chất một cuộc nội chiến? Phân biệt sự khác nhau giữa hai khái niệm Quân chủ chuyên chế và Quân chủ lập hiến để thấy được sự tiến bộ của Cách mạng tư sản Anh.
2. Tìm hiểu cơ cấu tổ chức nhà nước của Mĩ.
3. Tìm hiểu về trào lưu Triết học ánh sáng ở Pháp. Trào lưu đó có tác dụng gì đối với cách mạng tư sản Pháp?
Gíup em với ạ
Bài 1:
Đến giữa thế kỷ XVII, nước Anh vẫn là một nước quân chủ chuyên chế phong kiến. Mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến với giai cấp tư sản và nhân dân lao động ngày càng gay gắt. Trước khi cuộc nội chiến cách mạng bùng nổ, phong trào đấu tranh chống phong kiến đã phát triển mạnh mẽ. Trước hết, đó là những cuộc nổi dậy khởi nghĩa của quần chúng. Đồng thời có cuộc đấu tranh gay gắt giữa nhà vua với tư sản diễn ra ở nghị viện. Lúc này hầu hết nghị viện là tư sản hoặc quý tộc mới (quý tộc tư sản hoá). Nên nghị viện là dinh luỹ chính trị của giai cấp tư sản.
Quá trình cách mạng tư sản Anh diễn ra qua hai cuộc nội chiến: cuộc nội chiến lần thứ nhất (1642-1646) và cuộc nội chiến lần thứ hai (1648). Do cao trào đấu tranh của quần chúng và áp lực của nghị viện, trước ngưỡng cửa của cuộc nội chiến, vua Sáclơ I cùng các quý tộc trung thành đã bỏ Luân Đôn và chuyển sang thành phố Oxpho. Như vậy, lúc này có hai chính quyền song song: Chính quyền phong kiến của nhà vua ở Oxpho, nghị viện ở Luân Đôn thực hiện chức năng chính quyền của tư sản. Nghị viện tuyên bố giải tán quân đội nhà vua và lập thành quân đội của nghị viện.
Ngày 22/08/1642, vua Sáclơ I chính thức tuyên chiến với lực lượng cách mạng (lực lượng tư sản tiến bộ và toàn thể quần chúng nhân dân). Lúc này, xuất phát từ quyền lợi khác nhau, nội bộ nghị viện phân hoá thành hai phái: Phái trướng lão chiếm đa số, đại diện cho tầng lớp đại tư sản, chủ trương thoả hiệp với vua, coi chiến tranh là phương tiện để ép vua phải chịu nhượng bộ một số quyền lợi. Phái độc lập chiếm thiểu số trong nghị viện, đại biểu cho quyền lợi của tầng lớp tư sản bậc trung, được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân, có thái độ kiên quyết với nhà vua hơn. Thái độ đối với chiến tranh và cuộc tranh giành quyền lãnh đạo trong nội bộ giai cấp tư sản có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình diễn biến của nội chiến cách mạng.
Lúc đầu quân đội của nghị viện liên tiếp bị thất bại. Nhưng sau đó quân đội của nghị viện, do được cải tổ lại mà trong đó nòng cốt là đạo quân kị binh của Crôm Oen đã nhanh chóng phản công thắng lợi. Crôm Oem là mội trong những lãnh tụ xuất sắc của phái độc lập, đồng thời trở thành lãnh tụ của cách mạng tư sản. Bọn sĩ quan của phe trướng lão bị loại, quân đội nắm trong tay phái độc lập. Năm 1646, Sáclơ I bị bắt. Sau cuộc nội chiến lần thứ I, phái độc lập khống chế được nghị viện. Phái độc lập lại chủ trương thương lượng với vua để hợp pháp hoá chính quyền tư sản đo họ nắm giữ và không đáp ứng các yêu cầu của quần chúng nhân dân.Trong lúc phái trưởng lão và sau đó là phái độc lập tìm cách thương lượng với nhà vua, thì Sáclơ I vẫn ngoan cố và tìm cách phục hồi chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến. Sáclơ I trốn khỏi nhà giam và tập hợp lực lượng phản kích lại quân cách mạng. Cuộc nội chiến lần thứ hai bùng nổ. Quân đội cách mạng do Crôm Oen chỉ huy đánh bại quân đội nhà vua. Đến tháng 8/1648 cuộc nội chiến kết thúc. Sáclơ I lại bị bắt.
Trước áp lực của quần chúng nhân dân, ngày 23/12/1648, nghị viện trong tay phái độc lập thông qua sắc lệnh xét xử nhà vua. Ngày 4/1/1649 nghị viện thông qua nghị quyết, khẳng định quyền tối cao của hạ nghị viện trong bộ máy nhà nước (kể cả đối với thượng nghị viện, nhà vua). Nghị quyết viết: “1- Nhân dân, dưới quyền lực của thượng đế, là gốc rễ của mọi chính quyền chân chính. 2- Hạ viện do nhân dân bầu ra, có quyền lực tối cao trong quốc gia. 3- Những gì hạ viện tuyên bố là pháp luật thì nó có hiệu lực, dù cho các thượng nghị sĩ, nhà vua có phản bác”.
Nghị viện cử ra Toà án tối cao gồm 135 ủy viên, phụ trách xét xử nhà vua. Ngày 30/01/1649 Sác lơ I phải lên đoạn đầu đài.
Ngày 19/05/1649, trước sức mạnh đấu tranh cùa quần chúng, nền cộng hoà được tuyên bố chính thức thành lập. Hạ nghị viện nắm quyền lập pháp. Thượng nghị viện bị giải tán. Quyền hành pháp được giao cho nội các do nghị viện bầu ra. Những người của phái độc lập chiếm ưu thế trong chính quyền nhà nước tư sản. Tầng lớp sĩ quan quân đội đứng đầu là Crôm Oen nắm giữ những chức vụ quan trọng.
Như vậy, lúc đầu nhà nước tư sản Anh mang chính thể: Cộng hoà nghị viện và chính thể này chi tồn tại trong một thời gian ngắn.
Bài 2:
Quốc hội Hoa Kỳ là nhánh lập pháp của Chính quyền liên bang Hoa Kỳ. Theo chế độ lưỡng viện, Quốc hội gồm có Hạ viện (còn gọi là Viện dân biểu), và Thượng viện (còn gọi là Viện nghị sĩ).
Hạ viện có 435 thành viên bỏ phiếu, số thành viên mỗi bang phụ thuộc vào dân số của bang đó. Mỗi bang có tối thiểu 1 hạ nghị sĩ. Mỗi hạ nghị sĩ có nhiệm kỳ 2 năm. Một người muốn trở thành hạ nghị sĩ thì phải từ 25 tuổi trở lên, phải là công dân Hoa Kỳ ít nhất 7 năm, và phải là cư dân tại bang mà người đó đại diện. Không có giới hạn số nhiệm kì cho mỗi hạ nghị sĩ. Ngoài 435 thành viên bỏ phiếu còn có 6 thành viên không bỏ phiếu, bao gồm 5 đại biểu (delegate) từWashington, D.C, Guam, Quần đảo Virgin, Samoa thuộc Mỹ, Quần đảo Bắc Mariana, và 1 ủy viên cư dân (resident commissioner) từ Puerto Rico.
Thượng viện có tổng cộng 100 thượng nghị sĩ, mỗi bang có 2 thượng nghị sĩ. Mỗi thượng nghị sĩ phục vụ trong nhiệm kỳ 6 năm. Cứ mỗi 2 năm thì Thượng viện được bầu lại. Một người muốn được bầu làm thượng nghị sĩ thì phải ít nhất 30 tuổi, phải là công dân Hoa Kỳ ít nhất 9 năm, phải là cư dân tại bang mà họ đại diện trong thời gian bầu cử.
Mỗi viện đều có quyền lực riêng biệt. Thượng viện có nhiệm vụ cố vấn và phê chuẩn các bổ nhiệm của tổng thống, trong khi Hạ viện có trách nhiệm đệ trình các dự luật từ dân biểu và nâng cao thu nhập quốc gia. Tuy nhiên, cần có sự đồng thuận của cả hai viện để có thể thông qua các dự luật rồi trở thành đạo luật. Quyền lực của quốc hội được quy định trong những điều khoản của Hiến pháp; tất cả quyền còn lại dành cho các tiểu bang và nhân dân. Trong hiến pháp có “điều khoản cần thiết và thích đáng” cho phép quốc hội “làm tất cả luật cần thiết và thích đáng để bảo đảm sự vận hành của quyền lực hiện hành.”
Thành viên Hạ viện và Thượng viện được tuyển chọn theo thể thức một hạt bầu cử chọn một người là người có số phiếu cao nhất (first-past-the-post voting), ngoại trừ hai tiểu bang Louisiana và Washington theo thể thức bầu cử hai vòng (runoffs) – vòng đầu chọn hai người có số phiếu cao nhất để vào tiếp vòng sau.
Hiến pháp không có quy định nào về việc thiết lập các ủy ban của quốc hội, nhưng theo đà tăng trưởng của đất nước, do nhu cầu thẩm định các dự luật mà các ủy ban lần lượt ra đời. Quốc hội khoá 108 (2003-2005) có 19 uỷ ban thường trực ở Hạ viện và 17 uỷ ban ở Thượng viện, chưa kể bốn uỷ ban lưỡng viện có nhiệm vụ giám sát Thư viện Quốc hội, ấn loát, thuế và kinh tế. Mỗi viện còn có quyền bổ nhiệm, hoặc tuyển chọn các uỷ ban nghiên cứu các vấn đề đặc biệt. Vì khối lượng công việc gia tăng, các uỷ ban thường trực sản sinh thêm 150 tiểu ban trực thuộc.
Quốc hội có trách nhiệm giám sát và tác động đến các mặt điều hành của nhánh hành pháp. Quy trình giám sát của quốc hội nhắm vào các mục tiêu như ngăn chặn sự lãng phí, các hành vi dối trá, bảo vệ các quyền tự do dân sự cũng như các quyền cá nhân, bảo đảm việc tuân thủ pháp luật của nhánh hành pháp, thu thập thông tin để làm luật và giáo dục quần chúng, cũng như thẩm định những thành quả của hành pháp. Quyền giám sát này được thực thi đối với các bộ của chính phủ, các cơ quan hành pháp, các uỷ ban pháp chế, và chức vụ tổng thống. Chức năng giám sát của Quốc hội được thể hiện trong nhiều hình thức:
Chức trách của Nghị sĩ Quốc hội[sửa | sửa mã nguồn]
Mỗi nghị sĩ quốc hội phải đảm nhiệm năm chức trách: nhà lập pháp, thành viên uỷ ban, đại diện hạt bầu cử, người phục vụ cử tri, và chính trị gia.
Quyền lực của Quốc hội[sửa | sửa mã nguồn]
Hiến pháp quy định nhiều quyền khác nhau cho Quốc hội: quyền đánh thuế và thu thuế để trả nợ, cung ứng phương tiện quốc phòng và phúc lợi chung cho nước Mỹ; vay mượn tiền; lập ra các quy định thương mại với các nước khác và giữa các tiểu bang; thiết lập những quy định thống nhất về nhập tịch; phát hành tiền và quy định mệnh giá; trừng phạt các hình thức lừa đảo; thiết lập bưu điện và công lộ, cổ xuý sự tiến bộ khoa học, thiết lập các toà án trực thuộc Tối cao Pháp viện, định nghĩa và trừng phạt tội vi phạm bản quyền và các trọng tội, tuyên chiến, tổ chức và hỗ trợ quân đội, cung ứng và duy trì hải quân, làm luật lãnh thổ và lực lượng hải quân, cung ứng lực lượng dân quân, trang bị vũ khí và duy trì kỷ luật các lực lượng dân quân, thi hành hệ thống luật đặc biệt ở Washington, D. C., và ban hành những luật lệ cần thiết để thực thi quyền lực của Quốc hội.
Hành pháp[sửa | sửa mã nguồn]Huy hiệu Tổng thống Hoa Kỳ
Nhánh Hành pháp gồm có Tổng thống Hoa Kỳ và các viên chức được tổng thống ủy nhiệm để cấu thành Nội các Hoa Kỳ (chính phủ của Tổng thống Hoa Kỳ). Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ và là tổng tư lệnh quân lực, cũng là nhà ngoại giao trưởng. Theo Hiến pháp, tổng thống có trách nhiệm đôn đốc việc tuân thủ luật pháp. Để thực thi chức trách này, tổng thống điều hành ngành hành pháp của Chính phủ liên bang, một guồng máy khổng lồ với khoảng 4 triệu nhân viên, kể cả 1 triệu binh sĩ đang phục vụ trong quân đội. Tổng thống còn có quyền lực đáng kể trong các lĩnh vực tư pháp và lập pháp. Bên trong nhánh hành pháp, tổng thống được Hiến pháp dành cho nhiều quyền lực để điều hành công việc quốc gia cũng như bộ máy chính quyền liên bang, cũng có quyền ban hành sắc lệnh về các sự vụ quốc nội.
Tổng thống có quyền phủ quyết các đạo luật đã được Quốc hội thông qua. Tổng thống có thể bị luận tội bởi đa số dân biểu ở Hạ viện và bị phế truất chức vụ bởi đa số hai phần ba tại Thượng viện vì những cáo buộc như “phản quốc, hối lộ hoặc những trọng tội và hành vi bất chính khác”. Tổng thống không thể giải tán quốc hội hoặc tổ chức các cuộc bầu cử đặc biệt, nhưng có quyền ân xá những người bị buộc tội theo luật liên bang, ban hành sắc lệnh hành pháp và bổ nhiệm (với sự chuẩn thuận của Thượng viện) thẩm phán Tối cao Pháp viện và thẩm phán liên bang.
Phó Tổng thống là viên chức hành pháp đứng hàng thứ nhì trong chính quyền, là nhân vật đầu tiên theo thứ tự kế nhiệm tổng thống. Theo đó, Phó Tổng thống sẽ đảm nhiệm chức vụ tổng thống trong trường hợp tổng thống qua đời, hoặc từ nhiệm, hoặc bị bãi nhiệm, hoặc khả năng điều hành bị cản trở. Cho đến nay đã có chín trường hợp phó tổng thống thay thế tổng thống theo thể thức kế nhiệm. Chức trách hiến định của phó tổng thống là phục vụ trong cương vị Chủ tịch Thượng viện và có quyền biểu quyết nhằm phá thế bế tắc khi mà số phiếu của các thượng nghị sĩ rơi vào vị trí cân bằng, nhưng theo dòng thời gian phó tổng thống dần trở thành cố vấn chính cho tổng thống.
Tất cả quyền lực hành pháp trong Chính quyền liên bang đều được ủy nhiệm cho tổng thống, như vậy các viên chức chính phủ phải chịu trách nhiệm trước tổng thống. Tổng thống và phó tổng thống được tuyển chọn theo thể thức liên danh bởi Cử tri đoàn đại diện cho các tiểu bang và Đặc khu Columbia, có số thành viên ngang bằng số ghế ở Thượng viện và Hạ viện cộng thêm các đại biểu của Washington, D. C.. Hiện nay, số thành viên của cử tri đoàn là 538 theo công thức 100 + 435 + 3. Như vậy, muốn chiếm được ghế tổng thống, một liên danh phải giành được 270 phiếu của cử tri đoàn.
Mối quan hệ giữa Tổng thống và Quốc hội Hoa Kỳ phản ảnh mối quan hệ giữa Vương quyền và Quốc hội Vương quốc Anh vào thời điểm hình thành Hiến pháp Hoa Kỳ. Quốc hội có quyền làm luật để hạn chế quyền hành pháp của tổng thống, ngay cả đối với quyền tư lệnh các lực lượng vũ trang của tổng thống mặc dù trường hợp này là hiếm hoi – một thí dụ là những giới hạn quốc hội đã áp đặt trên Tổng thống Richard Nixon khi ông ra lệnh oanh tạc Campuchia trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Dù tổng thống có quyền đệ trình các dự luật (như ngân sách liên bang), thường thì tổng thống phải dựa vào sự hỗ trợ của các nghị sĩ để vận động cho các dự luật. Sau khi các dự luật được thông qua ở hai viện Quốc hội, cần có chữ ký của tổng thống để trở thành luật, đó là lúc tổng thống có thể sử dụng quyền phủ quyết – dù không thường xuyên – để bác bỏ chúng. Quốc hội có thể vượt qua phủ quyết của tổng thống nếu có được đa số hai phần ba ở cả hai viện. Quyền lực tối hậu của quốc hội đối với tổng thống là quyền luận tội và bãi nhiệm tổng thống qua quy trình biểu quyết ở Hạ viện và xét xử ở Thượng viện (với đa số hai phần ba). Đã có sự phân hoá chính trị nghiêm trọng khi quy trình này được áp dụng cho các tổng thống Andrew Johnson, Richard Nixon và Bill Clinton.
Tổng thống bổ nhiệm khoảng 2.000 chức danh hành pháp, trong đó có các thành viên Nội các và các đại sứ (cần có sự phê chuẩn của Thượng viện); tổng thống có quyền ban hành sắc lệnh và lệnh ân xá và thi hành các chức trách hiến định khác như đọc Diễn văn Liên bang trước Quốc hội (theo thông lệ mỗi năm một lần). Hiến pháp không buộc tổng thống phải đích thân đọc diễn văn, nhưng có thể gởi thông điệp cho quốc hội, theo cách các tổng thống Hoa Kỳ thường làm trong thế kỷ 19. Dù vai trò hiến định của tổng thống có thể bị hạn chế, trong thực tế, với những đặc quyền to lớn, chức danh này thường chiếm ưu thế đối với quyền lực quốc hội; có thể nói Tổng thống Hoa Kỳ là nhân vật nhiều quyền lực nhất thế giới. Phó Tổng thống là nhân vật đứng đầu trong thứ tự kế nhiệm tổng thống và đương nhiên là Chủ tịch Thượng viện. Các thành viên Nội các chịu trách nhiệm điều hành những bộ ngành khác nhau của chính phủ như Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp và Bộ Ngoại giao.
Nội các, Bộ ngành và các Cơ quan[sửa | sửa mã nguồn]
Chức trách điều hành thực thi luật pháp liên bang được đặt vào tay các bộ ngành hành pháp liên bang, được thiết lập bởi Quốc hội nhằm giải quyết các sự vụ quốc nội và quốc tế. Các bộ trưởng của 15 bộ khác nhau, được chọn bởi tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng viện, cấu thành một hội đồng cố vấn cho tổng thống gọi là “Nội các”. Ngoài ra, còn có một số tổ chức được xếp vào nhóm Văn phòng Hành pháp của Tổng thống gồm có ban nhân viên Toà Bạch Ốc, Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ, Văn phòng Chính sách Kiểm soát Ma tuý Quốc gia và Văn phòng Chính sách Khoa học Kỹ thuật. Cũng có các cơ quan độc lập khác như Cơ quan Tình báo Quốc gia, Cơ quan Quản lý Dược và Thực phẩm, và Cơ quan Bảo vệ Môi trường. Ngoài ra, còn có các tập đoàn quốc doanh như Amtrak.
Tư pháp[sửa | sửa mã nguồn]Huy hiệu Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ
Thiết chế đứng đầu nhánh tư pháp là Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, gồm có chín thẩm phán. Toà tối cao xét xử các sự vụ liên quan đến Chính phủ liên bang và những vụ tranh tụng giữa các tiểu bang, có quyền giải thích Hiến pháp và tuyên bố các hoạt động lập pháp và hành pháp ở mọi cấp chính quyền là vi hiến, cũng như có quyền vô hiệu hoá các luật lệ và tạo tiền lệ cho luật pháp và các phán quyết sau này. Dưới Toà án Tối cao là các Toà Kháng án, dưới nữa là toà án cấp quận, đây là cấp toà án thực hiện nhiều vụ xét xử nhất theo luật liên bang.
Tách khỏi, nhưng không hoàn toàn độc lập, với hệ thống toà án liên bang là các hệ thống toà án riêng lẻ thuộc tiểu bang, có thẩm quyền xét xử các vụ án theo luật tiểu bang với trình tự riêng của mình. Tối cao pháp viện của mỗi tiểu bang là thẩm quyền tối hậu giải thích hiến pháp và luật tiểu bang. Có thể kháng án lên toà liên bang sau khi chịu xét xử bởi toà tiểu bang nếu vụ án có liên quan đến các vấn đề liên bang.
Nhánh lập pháp liên bang gồm có Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, thẩm phán phục vụ ở toà này được bổ nhiệm trọn đời bởi Tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng viện, cùng với các toà án trực thuộc, trong đó có Toà Kháng án Liên bang và Toà án Liên bang cấp quận.
Theo cách này, Quốc hội khoá đầu tiên đã phân chia quốc gia thành nhiều quận tư pháp và thiết lập các toà án liên bang cấp quận. Từ đó hình thành cấu trúc hiện nay với Toà tối cao, 13 toà kháng án, 94 toà án quận và 2 toà án đặc biệt. Cho đến nay quốc hội vẫn giữ cho mình quyền thiết lập và huỷ bỏ các toà án liên bang, cũng như quyền quyết định số lượng thẩm phán trong hệ thống tư pháp liên bang. Dù vậy, Quốc hội không có quyền hủy bỏ Tối cao Pháp viện.
Hiện có ba cấp toà án liên bang với quyền xét xử các vụ án hình sự và dân sự giữa các cá nhân. Những toà khác như toà phá sản hoặc toà thuế vụ, là những toà án được thiết lập để giải quyết những vụ án thuộc một vài lãnh vực đặc biệt. Toà phá sản trực thuộc toà án quận nhưng không được xếp vào toà “Điều III” vì thẩm phán toà này không được bổ nhiệm trọn đời. Tương tự, toà án thuế vụ cũng không thuộc hệ thống toà án “Điều III”.
Toà án liên bang cấp quận là nơi các vụ án được đem ra xét xử và phán quyết. Toà kháng án là nơi xử lại các vụ án đã được quyết định ở toà án quận, một số vụ kháng án này là do các cơ quan hành chánh. Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ xem xét các vụ kháng án từ toà kháng án và từ toà tối cao tiểu bang (liên quan đến các vấn đề hiến pháp), cũng như tổ chức xét xử một số vụ việc khác.
Quyền tài phán liên bang có hiệu lực trên các vụ án dưới thẩm quyền Hiến pháp, các đạo luật của Quốc hội, hiệp ước của quốc gia, những vụ án liên quan đến các đại sứ, bộ trưởng và lãnh sự của nước ngoài tại Hoa Kỳ; những tranh tụng trong đó Chính phủ Hoa Kỳ là một bên; những tranh tụng giữa các tiểu bang (hoặc công dân tiểu bang) và nước ngoài (hoặc công dân nước ngoài); và những vụ án phá sản. Tu chính án thứ mười một dời bỏ khỏi quyền tài phán liên bang những vụ án, trong đó công dân của một tiểu bang là nguyên đơn và chính quyền của một tiểu bang khác là bị đơn. Cũng không thuộc quyền tài phán liên bang là những vụ án trong đó chính quyền một tiểu bang là nguyên đơn và công dân một tiểu bang khác là bị cáo.
Hiến pháp bảo đảm tính độc lập của nhánh tư pháp bằng cách quy định các thẩm phán liên bang được duy trì chức vụ “miễn là đạo đức tốt”. Điều này có nghĩa là các thẩm phán phục vụ cho đến khi qua đời, về hưu hoặc từ nhiệm. Thẩm phán phạm tội khi đương chức sẽ bị luận tội theo thể thức áp dụng cho tổng thống hoặc các viên chức Chính phủ liên bang. Thẩm phán liên bang được bổ nhiệm bởi tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng viện. Một điều khoản khác của Hiến pháp ngăn cấm Quốc hội cắt giảm lương thẩm phán – Quốc hội có thể làm luật để ấn định mức lương thấp hơn cho các thẩm phán tương lai nhưng không thể cắt giảm lương các thẩm phán đương nhiệm.
Bầu cử[sửa | sửa mã nguồn]Quốc huy Hoa Kỳ
Theo thời gian, thể thức bầu cử đã thay đổi đáng kể. Trong thời kỳ lập quốc, bầu cử là một vấn đề thuộc thẩm quyền tiểu bang, và chỉ hạn chế cho nam giới da trắng là chủ sở hữu đất. Các cuộc bầu cử trực tiếp được tổ chức để bầu thành viên của Viện Dân biểu (Hạ viện) và viện lập pháp các tiểu bang, mặc dù thể thức của chúng là khác nhau tại mỗi tiểu bang, trong khi hai thượng nghị sĩ đại diện cho mỗi tiểu bang tại thượng viện được chọn bởi đa số phiếu của viện lập pháp tiểu bang. Sau khi Tu chính án thứ mười bảy được phê chuẩn năm 1913, thành viên của cả hai viện Quốc hội mới được bầu trực tiếp.
Ngày nay, một phần là do Tu chính án thứ hai mươi sáu, công dân Hoa Kỳ từ 18 tuổi trở lên không phân biệt giới tính, chủng tộc hoặc tài sản có quyền bầu phiếu phổ thông, và lưỡng viện quốc hội cũng được bầu trực tiếp.
Quyền đại diện tại Quốc hội của các lãnh thổ và quận liên bang Washington, D. C. bị giới hạn: cư dân Đặc khu Columbia được đặt dưới thẩm quyền luật liên bang và hệ thống thuế liên bang nhưng đại diện của họ tại quốc hội chỉ có quyền đại biểu không bỏ phiếu.
Chính quyền tiểu bang, bộ tộc và địa phương[sửa | sửa mã nguồn]
Chính quyền tiểu bang là định chế có ảnh hưởng lớn nhất trên đời sống thường nhật của người dân Mỹ. Mỗi tiểu bang đều có hiến pháp, chính quyền và luật lệ riêng. Đôi khi có những khác biệt lớn trong luật và thủ tục hành chính giữa các tiểu bang liên quan đến những vấn đề như quyền sở hữu, tội phạm, y tế và giáo dục. Chức danh dân cử đứng đầu tiểu bang là Thống đốc. Mỗi tiểu bang đều có một viện lập pháp (theo thể chế lưỡng viện ngoại trừ tiểu bang Nebraska chỉ có một viện), và hệ thống tòa án riêng. Tại một số tiểu bang, thẩm phán tòa tối cao và các tòa dưới được bầu chọn bởi người dân, trong khi ở những bang khác, các thẩm phán được bổ nhiệm theo thể thức áp dụng cho liên bang.
Sau phán quyết của Tối cao Pháp viện về vụ án Worcester chống Georgia, các bộ tộc người da đỏ được xem là “các dân tộc độc lập bên trong một quốc gia” được hưởng quyền tự trị dưới thẩm quyền liên bang, nhưng không hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của tiểu bang. Hàng trăm luật lệ, sắc lệnh hành pháp và vụ án đã làm thay đổi vị trí của các bộ tộc đối với chính quyền tiểu bang, nhưng vẫn giữ hai bên tách biệt nhau. Khả năng điều hành chính quyền của các bộ tộc là khác nhau, từ một hội đồng gọn nhẹ quản lý tất cả sự vụ của bộ tộc cho đến một bộ máy hành chính cồng kềnh và phức tạp với các ban ngành khác nhau. Các bộ tộc có quyền tự thành lập chính quyền với thẩm quyền đặt vào tay các hội đồng bộ tộc, chủ tịch hội đồng được dân bầu, hoặc những thủ lĩnh tôn giáo. Quyền công dân (và quyền bầu cử) thường được giới hạn chặt chẽ trong vòng những người có nguồn gốc da đỏ.
Những thiết chế chịu trách nhiệm điều hành chính quyền địa phương như thị trấn, thành phố hoặc quận, được quyền ban hành luật trong một số lĩnh vực như giao thông, giấy phép bán rượu và chăn giữ súc vật. Chức vụ dân cử cao cấp nhất của thị trấn hoặc thành phố thường là thị trưởng. Ở vùng Tân Anh, các thị trấn được điều hành theo thể thức dân chủ trực tiếp trong khi ở một vài tiểu bang như Đảo Rhode và Connecticut, chính quyền cấp quận không có hoặc có rất ít quyền lực, chỉ hiện hữu như một sự phân định địa giới. Tại các tiểu bang khác, chính quyền quận được ban cho nhiều thẩm quyền hơn như quyền thu thuế và duy trì các cơ quan thi hành pháp luật.
Bài 3:
Thời kỳ Khai sáng thường được liên hệ chặt chẽ với cuộc Cách mạng Khoa học, do cả hai phong trào đều nhấn mạnh vào lý tính, khoa học hay sự hợp lý, trong khi phong trào Khai sáng còn tìm cách phát triển hiểu biết có hệ thống về các quy luật tự nhiên và thần học. Phong trào bắt nguồn từ cuộc cách mạng tri trức khởi đầu bởi Galileo và Newton, trong một bầu không khí ngày càng kém thiện cảm với quyền lực áp chế, trong những khám phá về cá nhân, xã hội, và nhà nước, các nhà tư tưởng Khai sáng tin rằng có thể áp dụng tư duy có hệ thống cho mọi lĩnh vực hoạt động của con người kể cả hoạt động nhà nước. Những người đi đầu phong trào tin rằng họ sẽ dẫn thế giới vào một thời đại mới của nhân tính, lý tính và tự do từ một thời kỳ dài đầy nghi ngờ, phi lý, mê tín dị đoan, và độc tài mà họ gọi là Thời kỳ Đen Tối (Dark Ages). Nhà văn thiên tài Pháp Voltaire nổi tiếng là một người chỉ trích việc áp đặt tôn giáo truyền thống, đồng thời là nhà triết học và nhà sử học văn hóa,[1][2] được vị vua kiệt xuất của nước Phổ lúc ấy là Friedrich II Đại Đế rất ưa chuộng.[3] Phong trào đã góp phần tạo ra nền tảng tư tưởng cho Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp, Phong trào độc lập Mỹ La Tinh, và Hiến pháp Ba Lan ngày 3 tháng 5; góp phần dẫn tới sự trỗi dậy của chủ nghĩa tự do cổ điển, dân chủ, và chủ nghĩa tư bản.
Phong trào Khai sáng đi kèm với thời kỳ cổ điển và baroque trong âm nhạc và thời kỳ tân cổ điển trong nghệ thuật; thời hiện đại chú ý đến phong trào Khai sáng như là một trong những mô hình trung tâm cho nhiều phong trào thời hiện đại.
Phong trào Khai sáng chỉ xảy ra tại Đức, Pháp, Anh, và Tây Ban Nha, nhưng tầm ảnh hưởng của nó lan xa hơn. Nhiều người trong số những người khai sinh ra Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã chịu ảnh hưởng lớn bởi các tư tưởng của thời kỳ Khai sáng, đặc biệt trong lĩnh vực tôn giáo (Thuyết thần giáo tự nhiên) và trong lĩnh vực chính trị với Hiến pháp Hoa Kỳ, Tuyên ngôn nhân quyền Hoa Kỳ (Bill of rights), cùng với Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp.
~Hok tốt~