1. Thuyết minh sề cây bút bi…
2. Thuyết minh về chiếc nón lá VN…
0 bình luận về “1. Thuyết minh sề cây bút bi…
2. Thuyết minh về chiếc nón lá VN…”
Đề 1.
Bài làm
Trong cuộc sống hiện đại hiện nay, việc sử dụng các loại viết để học tập và làm việc là không thể thiếu nhưng để lựa chọn loại viết phù hợp với thời đại công nghệ thông tin sao cho vừa nhanh, tiện lợi và ít tốn kém cũng là điều vô cùng quan trọng và sự ra đời của bút bi đáp ứng nhu cầu đó.
Từ những năm bắt đầu việc học người ta đã biết sử dụng các công cụ để có thể viết chữ. Thô sơ nhất là sử dụng lông vịt, lông ngỗng chấm vào mực, mực được bào chế từ các loại lá, quả, hoa có màu sắc giã nát ra. Nhưng đó là trong những năm còn lạc hậu việc sử dụng viết lông ngỗng để viết rất bất tiện vì lúc nào cũng phải mang theo lọ mực, sử dụng xong lại phải lau sạch và việc cứ phải liên tục chấm đầu lông ngỗng vào mực cũng rất mất thời gian và sau đó một nhà báo người Hungari đã chế tạo ra cây viết mực Lazso Biro. Việc sử dụng bút mực để rèn chữ là một điều rất tốt vì nét chữ sẽ đẹp song giá thành một cây bút máy khá đắt, nặng và khi viết khá chậm. Cho đến những năm gần đây người ta mới phát minh ra bút bi. Nó vừa đáp ứng nhu cầu rẻ, tiện lợi và nhẹ nữa phù hợp với nhiều đối tượng, nhất là học sinh, sinh viên.
Cấu tạo bên trong của bút cũng khá là đơn giản: vỏ bút được làm bằng nhựa hoặc bằng các kim loại dẻo trong suốt. Bên trong là ruột bút, ống dẫn mực, ngòi bút, lò xo. Ngòi bút có đường kính từ 0,25mm đến 0,7mm tùy theo nhu cầu của người sử dụng. Còn về việc sử dụng bút cũng khá là dễ dàng, khi cần thiết chỉ cần ấn vào đầu bút ngòi bút sẽ tự động lộ ra để chúng ta có thể sử dụng. Khi không sử dụng nữa ta chỉ cần ấn lại đầu bút, ngòi bút sẽ tự động thụt lại, lúc đó bạn có thể mang bút đi khắp mọi nơi mà vẫn yên tâm tránh được các tác nhân bên ngoài va chạm vào ngòi bút.
Hiện nay người ta còn tìm ra cách để chế tạo những bút lạ hơn như bút nhũ, bút nước, bút dạ quang phù hợp với người tiêu dùng, vừa phù hợp với túi tiền vừa có thể theo học sinh đến trường, theo các nhân viên văn phòng đến cơ quan. Ngoài ra còn có các phát minh về một số loại viết có thể viết được dưới nước, ở những nơi có áp suất khí quyển thấp. Nói gì thì nói, ta cũng không thể phủ nhận những khuyết điểm còn có ở bút bi là rất khó rèn chữ vì ngòi bút nhỏ, trơn và rất cứng không phù hợp với những học sinh cấp Một đang luyện chữ vì khi nào nét chữ đã cứng và đẹp ta hãy sử dụng, ngoài ra bút còn rất dễ bị tắc nghẽn mực trong khi sử dụng có thể là do lỗi của các nhà sản xuất hoặc cũng có thể do chúng ta làm rơi viết xuống đất và làm ngòi bút va chạm vào các vật cứng.
Do vậy, sử dụng bút tuy là đơn giản nhưng chúng ta cũng nên biết cách bảo quản bút sao cho bút có thể sử dụng được lâu và bền hơn như: sau khi sử dụng bút xong thì nên bấm đầu bút thụt lại để không bị rớt xuống đất, khô mực hoặc va chạm vào các vật cứng sẽ dễ làm vỡ vỏ bút hoặc làm bể đầu bi.
Một đặc điểm nhỏ mà ít ai nghĩ đến là có thể biến những cây bút bi thành những món quà nhỏ, xinh xắn, dễ thương và vô cùng ý nghĩa để làm món quà tặng người thân, bạn bè, thầy cô. Bút còn là người bạn đồng hành với những anh chiến sĩ ngoài mặt trận, để các anh có thể viết nhật ký, viết thư về cho gia đình. Viết xong, các anh có thể cài cây bút vào túi áo không sợ rơi mất, khi cần thiết có thể lấy ra dễ dàng và sử dụng ngay.
Bút là người bạn nhỏ, luôn sát cánh đồng hành trong công việc, học tập của mọi người, không tốn kém nhiều chi phí lại có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh, điều kiện ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta hãy biết ơn những người đã chế tạo ra cây bút để nhờ đó chúng ta có sự hỗ trợ đắc lực trong học tập và trong công việc hiện nay vẫn đáp ứng được theo xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Đề 2.
Bài làm
“Anh gửi cho em chiếc nón bài thơ xứ Nghệ Mang hình bóng quê hương, Lợp vào đây trăm mến ngàn thương Nón bài thơ, em đội nón bài thơ đi đón ngày hội mới Nước non ta nay một giải vẹn tròn, như chiếc nón bài thơ”.
Chiếc nón không chỉ là một vật dụng quen thuộc, hữu ích trong cuộc sống con người, mà từ lâu đời chiếc nón đã trở thành biểu tượng của đời sống, tâm hồn con người Việt. Chiếc nón thật quen thuộc đối với mỗi chúng ta, nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu về nguồn gốc, cấu tạo,… của chiếc nón.
Chiếc nón ra đời cách đây đã hàng nghìn năm. Trên trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn người ta đã tìm thấy hình ảnh chiếc nón lá. Nón lá đã gắn với đời sống vật chất, tinh thần của ông cha ta.
Nón lá được cấu tạo bằng tre và các loại lá như lá cọ, lá nón, lá hồ,… Nón của ta đa phần được cấu tạo là hình chóp nhọn, một số loại nón khác có thể được làm kiểu rộng bản, mặt bên trên để phẳng, và chúng thường có đường kính rộng hơn nón chóp. Nón thường được xếp trên một khung gồm các nan tre được vót nhẵn và uốn thành hình vòng cung, sao cho thật tròn và đẹp, sau đó chúng được cố định lại bằng các sợ chỉ chắc chắn, nếu không dùng chỉ có thể dùng các sợi tơ tằm hoặc sợi cước,… miễn là có thể tạo sự chắc chắn cho khung nón.
Một chiếc nón nhìn rất đơn giản, nhưng để tạo được một chiếc nón đẹp, chất lượng cao lại đòi hỏi tay nghề và quá trình làm hết sức công phu, cần sự tỉ mỉ và chính xác của người thợ. Trước hết, công đoạn quan trọng nhất là tạo khung nón, một chiếc khung nón tròn trịa, chắc chắn là cơ sở đầu tiên để làm nên một chiếc nón bền đẹp. Khung nón sử dụng các thanh tre được vuốt mỏng, dẻo dai với đường kính khác nhau, cái to nhất đường kính khoảng 40 – 50 cm, cứ như vậy nhỏ dần cho đến cái cuối cùng chỉ còn độ 2cm. Tất cả những vòng tròn này được xếp đều trên một chiếc khuôn hình chóp. Tiếp đó chúng ta cần chuẩn bị lá nón, lá nón cần được mang về phơi khô cho trắng, để tránh bị ẩm mốc cần xếp chúng vào các túi ni lông. Khi dùng lấy lá nón kéo cho phẳng rồi lấy kéo cắt chéo đầu trên của lá, tiếp đó dưới đôi bàn tay khéo léo của các thợ thủ công chúng được khâu lại với nhau từ 24-25 chiếc lá lại với nhau tạo hình chóp, rồi xếp đều lên khuôn nón. Nhưng nếu chỉ có một lượt lá mỏng như vậy, nón khi sử dụng vào trời mưa sẽ nhanh chóng bị mục nát và hỏng, bởi vậy để tăng độ bền và sự cứng cáp cho nón, những người thợ thủ công còn xếp thêm lớp lá nón nữa vào những khe hở. Lá nón cần được xếp một cách tỉ mỉ, không quá thưa cũng không quá dày, khi đã xếp xong, cần cắt phần lá còn thừa ở đuôi. Công đoạn tiếp theo, thợ thủ công lấy dây buộc chặt lá nón được trải đều trên khung và bắt đầu khâu. Người thợ đặt lá lên sườn nón để chằm nón thành hình chóp. Chỉ khâu có thể dùng sợi cước trắng để tránh mất mĩ quan cho nón mà lại rất bền. Đôi bàn tay của người thợ thoăn thoắt khâu như đang múa, chẳng mấy chốc chiếc nón đã được khâu xong. Nhưng khâu xong chiếc nón vẫn chưa hoàn thiện, để nón được đẹp và bền hơn người ta còn quét phủ một lớp dầu bóng lên bề mặt nón. Ngoài ra để làm chiếc nón thêm phần đẹp đẽ, có thể trang trí thêm tranh ảnh, vẽ lên bề mặt nón,… Phía trong mặt nón còn có một sợi dây buộc ngang tạo thành quai nón, để khi dùng không bị bay mất. Quai nón có thể được làm bằng vải nhung, lụa, the,… với sắc màu đa dạng, phù hợp với nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng.
Nón được phân thành nhiều loại khác nhau chủ yếu dựa trên nguyên liệu làm nón và hình dáng nón. Nón quai thao, thường chỉ có miền Bắc, mặt trên bằng, dùng để đi lễ hội; nón bài thơ ở Huế, nón lá mỏng có những bài thơ bên trong; nón rơm được làm bằng những sợi rơm đã được ép cứng; nón thúng có hình bầu giống cái thúng;… nhưng loại phổ biến nhất vẫn là nón hình chóp. Nón hiện nay chủ yếu được sản xuất ở những địa phương như: Huế, Quảng Bình, Hà Tây,…
Chiếc nón có nhiều giá trị, ý nghĩa với con người cả trên phương diện vật chất và tinh thần. Trước hết nón có công dụng che mưa, che nắng cho con người, thời xưa nón là một vật dụng không thể thiếu trong mỗi gia đình. Trong những ngày hè nóng bức chiếc nón còn trở thành quạt, xua tan cái oi nóng của mùa hè,…
Không chỉ vậy nón còn khơi nguồn cảm hứng nghệ thuật cho con người. Đến với xứ Huế mơ mộng, trong mỗi chiếc nón lại có những bài thơ gửi gắm nỗi niềm tâm sự của người mang nó. Chiếc nón lá còn đi vào thơ ca, nhạc họa:
“Sao anh không về thăm quê em Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên Bàn tay xây lá, tay xuyên nón Mười sáu vành, mười sáu trăng lên”
Những điệu múa nón dịu dàng, uyển chuyển làm say đắm lòng người. Đối với du khách nước ngoài, họ đặc biệt yêu thích những chiếc nón lá của người Việt.
Cuộc sống con người ngày càng phát triển, đã có nhiều phương tiện mới ra đời thay thế cho chiếc nón. Nhưng không vì thế chiếc nón mất đi vị trí ý nghĩa của mình. Nón lá là hình ảnh đẹp biểu tượng cho tâm hồn, con người Việt Nam, là một nét đẹp văn hóa của dân tộc ta cần được giữ gìn và phát huy.
Đề 1.
Bài làm
Trong cuộc sống hiện đại hiện nay, việc sử dụng các loại viết để học tập và làm việc là không thể thiếu nhưng để lựa chọn loại viết phù hợp với thời đại công nghệ thông tin sao cho vừa nhanh, tiện lợi và ít tốn kém cũng là điều vô cùng quan trọng và sự ra đời của bút bi đáp ứng nhu cầu đó.
Từ những năm bắt đầu việc học người ta đã biết sử dụng các công cụ để có thể viết chữ. Thô sơ nhất là sử dụng lông vịt, lông ngỗng chấm vào mực, mực được bào chế từ các loại lá, quả, hoa có màu sắc giã nát ra. Nhưng đó là trong những năm còn lạc hậu việc sử dụng viết lông ngỗng để viết rất bất tiện vì lúc nào cũng phải mang theo lọ mực, sử dụng xong lại phải lau sạch và việc cứ phải liên tục chấm đầu lông ngỗng vào mực cũng rất mất thời gian và sau đó một nhà báo người Hungari đã chế tạo ra cây viết mực Lazso Biro. Việc sử dụng bút mực để rèn chữ là một điều rất tốt vì nét chữ sẽ đẹp song giá thành một cây bút máy khá đắt, nặng và khi viết khá chậm. Cho đến những năm gần đây người ta mới phát minh ra bút bi. Nó vừa đáp ứng nhu cầu rẻ, tiện lợi và nhẹ nữa phù hợp với nhiều đối tượng, nhất là học sinh, sinh viên.
Cấu tạo bên trong của bút cũng khá là đơn giản: vỏ bút được làm bằng nhựa hoặc bằng các kim loại dẻo trong suốt. Bên trong là ruột bút, ống dẫn mực, ngòi bút, lò xo. Ngòi bút có đường kính từ 0,25mm đến 0,7mm tùy theo nhu cầu của người sử dụng. Còn về việc sử dụng bút cũng khá là dễ dàng, khi cần thiết chỉ cần ấn vào đầu bút ngòi bút sẽ tự động lộ ra để chúng ta có thể sử dụng. Khi không sử dụng nữa ta chỉ cần ấn lại đầu bút, ngòi bút sẽ tự động thụt lại, lúc đó bạn có thể mang bút đi khắp mọi nơi mà vẫn yên tâm tránh được các tác nhân bên ngoài va chạm vào ngòi bút.
Hiện nay người ta còn tìm ra cách để chế tạo những bút lạ hơn như bút nhũ, bút nước, bút dạ quang phù hợp với người tiêu dùng, vừa phù hợp với túi tiền vừa có thể theo học sinh đến trường, theo các nhân viên văn phòng đến cơ quan. Ngoài ra còn có các phát minh về một số loại viết có thể viết được dưới nước, ở những nơi có áp suất khí quyển thấp. Nói gì thì nói, ta cũng không thể phủ nhận những khuyết điểm còn có ở bút bi là rất khó rèn chữ vì ngòi bút nhỏ, trơn và rất cứng không phù hợp với những học sinh cấp Một đang luyện chữ vì khi nào nét chữ đã cứng và đẹp ta hãy sử dụng, ngoài ra bút còn rất dễ bị tắc nghẽn mực trong khi sử dụng có thể là do lỗi của các nhà sản xuất hoặc cũng có thể do chúng ta làm rơi viết xuống đất và làm ngòi bút va chạm vào các vật cứng.
Do vậy, sử dụng bút tuy là đơn giản nhưng chúng ta cũng nên biết cách bảo quản bút sao cho bút có thể sử dụng được lâu và bền hơn như: sau khi sử dụng bút xong thì nên bấm đầu bút thụt lại để không bị rớt xuống đất, khô mực hoặc va chạm vào các vật cứng sẽ dễ làm vỡ vỏ bút hoặc làm bể đầu bi.
Một đặc điểm nhỏ mà ít ai nghĩ đến là có thể biến những cây bút bi thành những món quà nhỏ, xinh xắn, dễ thương và vô cùng ý nghĩa để làm món quà tặng người thân, bạn bè, thầy cô. Bút còn là người bạn đồng hành với những anh chiến sĩ ngoài mặt trận, để các anh có thể viết nhật ký, viết thư về cho gia đình. Viết xong, các anh có thể cài cây bút vào túi áo không sợ rơi mất, khi cần thiết có thể lấy ra dễ dàng và sử dụng ngay.
Bút là người bạn nhỏ, luôn sát cánh đồng hành trong công việc, học tập của mọi người, không tốn kém nhiều chi phí lại có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh, điều kiện ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta hãy biết ơn những người đã chế tạo ra cây bút để nhờ đó chúng ta có sự hỗ trợ đắc lực trong học tập và trong công việc hiện nay vẫn đáp ứng được theo xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Đề 2.
Bài làm
“Anh gửi cho em chiếc nón bài thơ xứ Nghệ
Mang hình bóng quê hương,
Lợp vào đây trăm mến ngàn thương
Nón bài thơ, em đội nón bài thơ đi đón ngày hội mới
Nước non ta nay một giải vẹn tròn, như chiếc nón bài thơ”.
Chiếc nón không chỉ là một vật dụng quen thuộc, hữu ích trong cuộc sống con người, mà từ lâu đời chiếc nón đã trở thành biểu tượng của đời sống, tâm hồn con người Việt. Chiếc nón thật quen thuộc đối với mỗi chúng ta, nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu về nguồn gốc, cấu tạo,… của chiếc nón.
Chiếc nón ra đời cách đây đã hàng nghìn năm. Trên trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn người ta đã tìm thấy hình ảnh chiếc nón lá. Nón lá đã gắn với đời sống vật chất, tinh thần của ông cha ta.
Nón lá được cấu tạo bằng tre và các loại lá như lá cọ, lá nón, lá hồ,… Nón của ta đa phần được cấu tạo là hình chóp nhọn, một số loại nón khác có thể được làm kiểu rộng bản, mặt bên trên để phẳng, và chúng thường có đường kính rộng hơn nón chóp. Nón thường được xếp trên một khung gồm các nan tre được vót nhẵn và uốn thành hình vòng cung, sao cho thật tròn và đẹp, sau đó chúng được cố định lại bằng các sợ chỉ chắc chắn, nếu không dùng chỉ có thể dùng các sợi tơ tằm hoặc sợi cước,… miễn là có thể tạo sự chắc chắn cho khung nón.
Một chiếc nón nhìn rất đơn giản, nhưng để tạo được một chiếc nón đẹp, chất lượng cao lại đòi hỏi tay nghề và quá trình làm hết sức công phu, cần sự tỉ mỉ và chính xác của người thợ. Trước hết, công đoạn quan trọng nhất là tạo khung nón, một chiếc khung nón tròn trịa, chắc chắn là cơ sở đầu tiên để làm nên một chiếc nón bền đẹp. Khung nón sử dụng các thanh tre được vuốt mỏng, dẻo dai với đường kính khác nhau, cái to nhất đường kính khoảng 40 – 50 cm, cứ như vậy nhỏ dần cho đến cái cuối cùng chỉ còn độ 2cm. Tất cả những vòng tròn này được xếp đều trên một chiếc khuôn hình chóp. Tiếp đó chúng ta cần chuẩn bị lá nón, lá nón cần được mang về phơi khô cho trắng, để tránh bị ẩm mốc cần xếp chúng vào các túi ni lông. Khi dùng lấy lá nón kéo cho phẳng rồi lấy kéo cắt chéo đầu trên của lá, tiếp đó dưới đôi bàn tay khéo léo của các thợ thủ công chúng được khâu lại với nhau từ 24-25 chiếc lá lại với nhau tạo hình chóp, rồi xếp đều lên khuôn nón. Nhưng nếu chỉ có một lượt lá mỏng như vậy, nón khi sử dụng vào trời mưa sẽ nhanh chóng bị mục nát và hỏng, bởi vậy để tăng độ bền và sự cứng cáp cho nón, những người thợ thủ công còn xếp thêm lớp lá nón nữa vào những khe hở. Lá nón cần được xếp một cách tỉ mỉ, không quá thưa cũng không quá dày, khi đã xếp xong, cần cắt phần lá còn thừa ở đuôi. Công đoạn tiếp theo, thợ thủ công lấy dây buộc chặt lá nón được trải đều trên khung và bắt đầu khâu. Người thợ đặt lá lên sườn nón để chằm nón thành hình chóp. Chỉ khâu có thể dùng sợi cước trắng để tránh mất mĩ quan cho nón mà lại rất bền. Đôi bàn tay của người thợ thoăn thoắt khâu như đang múa, chẳng mấy chốc chiếc nón đã được khâu xong. Nhưng khâu xong chiếc nón vẫn chưa hoàn thiện, để nón được đẹp và bền hơn người ta còn quét phủ một lớp dầu bóng lên bề mặt nón. Ngoài ra để làm chiếc nón thêm phần đẹp đẽ, có thể trang trí thêm tranh ảnh, vẽ lên bề mặt nón,… Phía trong mặt nón còn có một sợi dây buộc ngang tạo thành quai nón, để khi dùng không bị bay mất. Quai nón có thể được làm bằng vải nhung, lụa, the,… với sắc màu đa dạng, phù hợp với nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng.
Nón được phân thành nhiều loại khác nhau chủ yếu dựa trên nguyên liệu làm nón và hình dáng nón. Nón quai thao, thường chỉ có miền Bắc, mặt trên bằng, dùng để đi lễ hội; nón bài thơ ở Huế, nón lá mỏng có những bài thơ bên trong; nón rơm được làm bằng những sợi rơm đã được ép cứng; nón thúng có hình bầu giống cái thúng;… nhưng loại phổ biến nhất vẫn là nón hình chóp. Nón hiện nay chủ yếu được sản xuất ở những địa phương như: Huế, Quảng Bình, Hà Tây,…
Chiếc nón có nhiều giá trị, ý nghĩa với con người cả trên phương diện vật chất và tinh thần. Trước hết nón có công dụng che mưa, che nắng cho con người, thời xưa nón là một vật dụng không thể thiếu trong mỗi gia đình. Trong những ngày hè nóng bức chiếc nón còn trở thành quạt, xua tan cái oi nóng của mùa hè,…
Không chỉ vậy nón còn khơi nguồn cảm hứng nghệ thuật cho con người. Đến với xứ Huế mơ mộng, trong mỗi chiếc nón lại có những bài thơ gửi gắm nỗi niềm tâm sự của người mang nó. Chiếc nón lá còn đi vào thơ ca, nhạc họa:
“Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên”
Những điệu múa nón dịu dàng, uyển chuyển làm say đắm lòng người. Đối với du khách nước ngoài, họ đặc biệt yêu thích những chiếc nón lá của người Việt.
Cuộc sống con người ngày càng phát triển, đã có nhiều phương tiện mới ra đời thay thế cho chiếc nón. Nhưng không vì thế chiếc nón mất đi vị trí ý nghĩa của mình. Nón lá là hình ảnh đẹp biểu tượng cho tâm hồn, con người Việt Nam, là một nét đẹp văn hóa của dân tộc ta cần được giữ gìn và phát huy.
Anh có một bài vậy thôi cho anh xin câu trả lời hay nha