1. Vì sao Lý Công Uẩn lại chọn Thăng Long để đóng đô ? Vc đóng đô ở Thăng Long có ý nghĩa gì?
2.Kinh thành Thăng Long có đặc điểm ntn?
3.Kinh tế ,văn hóa,quân sự, giáo dục của Thăng Long thời Lý ntn?
4. Kể 1 số nhân vật tiêu biểu thời Lý? Em hãy nêu 1 số hiểu biết của mik về Nguyên Phi Ỷ Lan?
Làm nhanh hộ mik
1a) Lý Công Uẩn lại chọn Thăng Long để đóng đô là bởi vì :
– Kinh đô trước, địa thế hiểm trở, thích hợp ở thời chiến khi thế lực quốc gia yếu.
– Khi đất nước đã thái bình, lựa chọn nơi có địa thế thích hợp.
+) Ổn định về kinh trị làm cơ sở để phát triển kinh tế, đưa đất nc đi lên.
– “Xem khắp đất Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương. Đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”.
⇒ Thăng Long là nơi có vị trí thích hợp nhất !
⇒ Lý Công Uẩn quyết định rời đô về Đại La đổi tên Thăng Long.
1b) Việc chúng ta định đô ở Thăng Long có ý nghĩa là :
– Đánh dấu sự trường thành của dân tộc Việt Nam chúng ta.
– Thể hiện mong ước ” rồng đi lên ” của nhân dân ta.
3. a) Giáo dục : Năm 1070, lập Văn Miếu ở Thăng Long thờ Khổng Tử, dạy con vua học.
– Năm 1075, mở khoa thi đầu tiên để chọn quan lại.
– 1076, mở Quốc Tử Giám cho con em quý tộc học, trường đại học đầu tiên ở nc ta.
– Học Nho Giáo và chữ Hán, bài thơ ” Nam Quốc Sơn Hà ” của Lý Thường Kiệt.
– Giáo dục, thi cử hạn chế vì học chỉ giành cho con em nhà giàu, vua, quan lại.
– Phật giáo phát triển : do các nhà sư có học đc triều đình, nhân dân tôn trọng.
b) Văn hóa : Nhân dân ưa ca hát, nhảy múa, hát chèo, múa rối nc, …
– Các công trình kiến trúc và điêu khắc phát triển hơn :
+) Chùa Một Cột (Diên Hựu), Bảo Thiên.
+) Tượng rồng mình trơn, toàn thân uốn khúc, uyển chuyển như ngọn lửa.
⇒ Nền nghệ thuật, phong phú, độc đáo và kinh hoạt của nhân dân ta ở thời nhà Lý đã đánh dấu sự ra đời của nền văn hóa riêng biệt của dân tộc : Văn hóa Thăng Long.
1. vì đây là vùng đất trung tâm đất nước, đất rộng lại bằng phẳng, dân cư không ngập vì lũ lụt, muôn vật tốt tươi phong phú.
–
Về chính trị – văn hóa: một vùng đất với nhiều lợi thế, đồng thời là đầu mối giao thông, buôn bán quan trọng, địa hình rộng rãi là nơi hội tụ giao lưu văn hóa trong điều kiện có đầy đủ cơ sở kinh tế – xã hội, cư dân no ấm, văn hóa cũng dựa vào đó mà phát triển và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, để lại di sản Thăng Long văn hiến cho dân tộc. Cùng với việc xây dựng hoàng thành Thăng Long, đã trở thành trung tâm văn hóa, chính trị của cả nước, chi phối một cách trực tiếp, điều hành mọi mặt của đời sống đất nước. Đồng thời thể hiện ý đồ chính trị của nhà cầm quyền là để dễ điều hành, quản lý nhân dân; bên cạnh đó dễ dàng thu nguồn nhân lực vật lực từ nhân dân dể phục vụ, nuôi sống bộ máy hành chính nhà nước và các giai cấp và tầng lớp thống trị.
Về hành chính: do địa hình thuận lợi, lại nằm giữa trung tâm của đất nước lúc bấy giờ, nên việc thiết lập một mạng lưới hành chính một cách chặt chẽ từ trung ương lan tỏa ra những vùng xung quanh được tiến hành một cách có hệ thống, thậm chí đến những vùng cao ở Tây Bắc hay xuôi về phương Nam, từ đó có thể dễ dàng đưa quân đi và thiết lập cơ sở hành chính ở các nơi này.
Về quân sự: ở Hoa Lư (Ninh Bình) là một địa bàn chật hẹp chỉ mang ý nghĩa phòng thủ là chính con tấn công và phát triển kinh tế thì rất khó khăn. Việc vận động chiến đấu của binh lính thủy bộ gặp phải nhiều trở ngại do địa hình núi non hiểm trở, chỉ thuận lợi cho việc phòng thủ; còn ở Đại La địa hình bằng phẳng, có nhiều nhánh sông chằng chịt thông thương ngược lên mạng bắc, qua phía tây, xuôi về phương nam và có nhiều sông đổ ra biển qua nghiều cửa sông, phù hợp với cách đánh vận động chiến của cả hai bộ phận quân thủy bộ, đặc biệt là thủy binh, thế mạnh quân sự chính của cư dân Đại Việt lúc bấy giờ. Với địa hình như thế có thể đưa quân đi tác chiến ở các khu vực tỏa ra từ trung tâm Thăng Long.
Về kinh tế: đây là một vùng hậu cần quan trọng, một nơi đồng bằng trù phú mật ngọt, có khả năng cung cấp đầy đủ, thậm chí là dồi dào nguồn nhân lực, vật lực trong thời bình cũng như thời chiến. Trong thời bình, thì cung cấp lực lượng lao động phát triển kinh tế và nguồn lương thực thực phẩm nuôi sống bộ máy nhà nước và cư dân nơi đây. Trong thời chiến, thì cung cấp quân lực, lương thực thực phẩm, phương tiện chiến tranh và các loại vũ khí, trang thiết bị cho quân đội. Là một vùng có đất đai canh tác màu mỡ rộng lớn, cư dân đông đúc thuận lợi để phát triển nông nghiệp và nhiều ngành thủ công, thông qua việc giao lưu buôn bán qua nhiều con đường thủy bộ.
Từ những ý nghĩa trên, thông qua tầm nhìn xa trông rông của Lý Thái Tổ đã tạo nên sự phát triển cho Thăng Long – Hà Nội đến ngày hôm nay. Thăng Long mãi là hình ảnh con rồng bay thẳng lên bầu trời xanh tượng trưng cho sự phát triển của con dân đất Việt này.
2.
Từ thời Lý, cấu trúc “tam trung thành quách” đã định hình rõ ràng. Vòng thành trong cùng bao bọc nơi ở của vua, gọi là Cấm thành, vòng thành giữa bao bọc nơi nhà vua và triều đình làm việc, bao trọn cả Cấm thành, là Hoàng thành, hay còn gọi là Long thành. Vòng thành ngoài cùng bao bọc nơi ở của quan lại, thái tử, hoàng tử, anh em họ hàng nhà vua và dân chúng, gọi là Đại La thành. Vùng đất nằm giữa Hoàng thành và Đại La thành gọi là Kinh thành.
Với chủ trương không bao bọc thái tử và hoàng tử trong bốn bức tường Hoàng thành, các vua triều Lý luôn xây dựng cung điện ở ngoài thành cho các con trai của mình. Ngoài Hoàng thành là Kinh thành với muôn mặt đời sống thường nhật của người dân diễn ra mỗi ngày. Đó là cách tốt nhất để các thái tử và hoàng tử hiểu rõ việc đời, việc người, hiểu rõ về xã hội, dân chúng mà họ sẽ trị vì sau này.
Cung điện của Thái tử được gọi là cung Long Đức. Đây là cung điện cố định nhất trong số các cung điện dành cho con trai của nhà vua. Khi một hoàng tử được lập làm thái tử thì sẽ được dọn về ở tại cung này. Khi thái tử lên ngôi vua, cung này lại được dành cho thái tử thế hệ kế tiếp. Vì thế, chủ nhân của cung Long Đức có tính luân phiên.
Bên cạnh cung Long Đức, các phủ điện của các hoàng tử, hoàng thân quốc thích, các quan lại và doanh trại quân lính cũng tập trung tại khu vực Kinh thành. Đây là những công trình kỳ vĩ nằm xen kẽ với phố phường buôn bán và nơi ở, sản xuất của nhân dân, tạo thành tổ hợp phố phường thành thị sầm uất.
Thời Lý, Kinh thành Thăng Long được chia làm 61 phường là nơi ở, làm ăn, sản xuất và buôn bán của nhân dân. Nguyên nghĩa của chữ “phường” là “ô đất vuông”. 61 phường có từ thời Lý là 61 ô đất vuông tập hợp các hộ gia đình thành một đơn vị hành chính tương đương với một xã ở nông thôn. Các phường này được giới hạn với nhau bằng đường phố. Đây là kiểu quy hoạch kinh đô đặc trưng thời Trung đại. Tuy nhiên, Kinh đô Thăng Long lại có điểm đặc sắc riêng, ấy là mỗi phường đều là nơi tập trung các thợ thủ công làm chung một nghề và thường có chung một quê. Bởi vậy, người ta thường nói về “phường thợ xây”, “phường thợ mộc” hay “phường thợ hàn”. Phường từ một đơn vị hành chính đã gắn với nghề nghiệp chủ đạo của những người dân cư trú tại phường đó. Người dân thường mở cửa hàng bán sản phẩm của phường mình ở ven các con phố chạy qua phường, hình thành nên các con phố buôn bán chủ yếu chung một mặt hàng và phố được gọi tên theo mặt hàng kinh doanh từ đó. Điều này lý giải vì sao Thăng Long – Hà Nội cổ có những con phố mang tên Hàng Đồng, Hàng Nón, Hàng Tre
Trung tâm Kinh thành Thăng Long có Thái Hồ là nơi nhà Lý dựng Văn Miếu và trường Quốc Tử Giám. Phía Nam Thái Hồ là hồ Chu Tước (sau gọi là hồ Bích Câu, sau nữa được tách thành hồ Bảy Mẫu và hồ Thuyền Quang). Năm 1154, vua Lý Anh Tông cho dựng đàn Viên Khâu cạnh hồ Chu Tước để làm lễ Tế Giao hằng năm.
Thời Lý, hồ Dâm Đàm (hồ Tây) đã tách khỏi sông Hồng, nhưng hồ Lục Thủy (hồ Gươm) và hồ Chu Tước thì vẫn ăn thông với sông Kim Ngưu và sông Tô Lịch – hai con sông uốn khúc chảy quanh trong nội thành Thăng Long. Trên đoạn sông Tô Lịch cổ chạy qua Kinh thành Thăng Long được dựng một vài cây cầu để cư dân hai bên bờ sông có thể qua lại, giao thương: cầu Đông xây bằng đá, cầu Thái Hòa dựng bằng gỗ, cầu Cau và cầu Tây Dương.
Cũng do Kinh đô Thăng Long có hệ thống sông hồ thông thoáng nên hình thành những bến thuyền (từ cổ gọi là “búa”) tấp nập thuyền bè vào ra buôn bán: bến Triều Đông (Hòe Nhai), bến Thái Cực (Hàng Đào), bến Thái Tổ (Nguyễn Du), bến Giang Tân (Nghĩa Đô), bến Thiên Thu, bến Đại Thông (hiện chưa xác định thuộc khu vực nào)… Thăng Long thời xưa chợ và bến thuyền thường song hành với nhau như thế nên mới hình thành cách gọi “chợ búa” như dân ta vẫn quen dùng cho đến nay.
Kinh thành Thăng Long
Kinh thành Thăng Long nằm ven sông Hồng (còn gọi là sông Nhị, hay Lô Giang thời Lý). Các nhà vua thời Lý cho dựng bốn cung điện ven sông này để nhà vua và tùy tùng, quan lại ra xem lễ hội đua thuyền hằng năm. Bốn cung điện đó là Hàm Quang (được xây dựng năm 1011), Linh Quang (được xây dựng năm 1058), Thủy Tinh và cung Thánh Từ (được xây dựng vào đầu thế kỷ XII). Trong đó, cung Thánh Từ cũng chính là nơi dành cho Thái Hậu ở. Các cung điện ở đây đều được xây dựng với quy mô rất lớn thành quần thể cung điện nguy nga, tráng lệ. Chẳng hạn, bên trái điện Linh Quang được dựng thêm điện Kiến Lễ, bên phải là điện Sùng Nghi, mặt tiền dựng lầu chuông một cột 6 cạnh hình hoa sen (thời Lý, Phật giáo trở nên thịnh hành và hình ảnh hoa sen được cách điệu thành những họa tiết trang trí và công trình xây dựng, làm nên những công trình lịch sử như Chùa Một Cột…)
Chùa Một Cột
Bên hồ Dâm Đàm (hồ Tây), các nhà vua triều Lý cũng cho xây nhiều cung điện làm hành cung hoặc quán quan ngự trên mặt nước để xem đánh cá, bơi thuyền. Đầu thế kỷ XIII, công chúa Từ Hoa, con gái của vua Lý Thần Tông, ở cung Từ Hoa ven hồ Dâm Đàm đã cùng các cung nữ mở nghề trồng dâu nuôi tằm. Vì thế, nơi này mới có tên là trại Tàm Tang, sau đổi thành Nghi Tàm.
Còn bên hồ Lục Thủy, nhà Lý cho dựng nhiều công trình quan trọng, như tháp Báo Thiên và chùa Báo Thiên được dựng để ghi công chiến thắng quân Chiêm Thành, cung Chiêm Nữ là nơi dành cho các cung nữ Chiêm Thành bị bắt tới ở.
Thời Lý, do đạo Phật thịnh hành nên trong Kinh thành được nhà vua cho dựng nhiều chùa chiền, trong đó có nhiều ngôi chùa nổi tiếng như chùa Vạn Tuế, chùa Diên Hựu, chùa Ngọc Hồ.
Theo thuyết phong thủy, nhà Lý cũng cho đắp nhiều núi giả để vừa được vận nước vững bền, vừa làm nơi thắng cảnh thưởng ngoạn. Có thể kể đến một vài ngọn núi nhân tạo này, như: Tam Sơn, Ngũ Nhạc, Khán Sơn, Sư Sơn. Cũng có ý kiến cho rằng, Nùng Sơn là một trong những ngọn núi nhân tạo như thế. Tuy nhiên, ý kiến này còn nhiều tranh cãi do Nùng Sơn còn được đồng nhất với núi Long Đỗ (rốn rồng) tồn tại từ trước khi nhà Lý dời đô về Thăng Long.
Bên bờ Đông sông Hồng, đối diện với Kinh thành, vua Lý Anh Tông cho dựng trạm Hoài Viễn làm nơi tiếp đón sứ giả các nước và tù trưởng các miền thiểu số tới kinh triều kiến nhà vua.
Như vậy, từ thời nhà Lý, Thăng Long đã trở thành không chỉ là trung tâm chính trị, hành chính, quân sự mà còn là trung tâm kinh tế, văn hóa lớn của cả nước, với lối quy hoạch phố phường kiểu bàn cờ mang tính khoa học cao.
3.
* Nhà Lý:
– Xây dựng Văn Miếu để thờ Khổng Tử và dạy học cho các con vua.
– Tổ chức khoa thi để chọn người làm quan.
– Phật giáo rất phát triển, hầu hết các vua thời Lý đều sùng Phật giáo.
=> Như vậy, nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến giáo dục, khoa cử song chế độ thi cử chưa có nền nếp, quy củ, khi nào nhà nước có nhu cầu mới mở khoa thi.
4.bí ồi