Xã hội Việt Nam trong những năm cuối TK XIX đầu TK XX

Xã hội Việt Nam trong những năm cuối TK XIX đầu TK XX

0 bình luận về “Xã hội Việt Nam trong những năm cuối TK XIX đầu TK XX”

  1. Năm 1858, thực dân Pháp vào Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược tại Việt Nam. Năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước nhượng Sài Gòn và ba tỉnh Nam Kỳ (Nam Bộ) lân cận cho Pháp. Vào năm 1869, Pháp chiếm nốt ba tỉnh kế tiếp. Thực dân Pháp đã áp dụng chính sách chia để trị, chia nước ta thành ba đơn vị hành chính là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Trong sự phân chia đó, vùng đất Nam Bộ trở thành vùng đất Viễn Đông thuộc Pháp với những nét riêng về chính trị, kinh tế, xã hội so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa phong kiến.

    Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, chính sách khai thác thuộc địa Pháp áp dụng tại Việt Nam ngày càng gắt gao hơn, làm thay đổi sâu sắc xã hội Việt Nam nói chung, Nam Kỳ nói riêng. Đời sống nhân dân cực khổ, một bộ phận nông dân phải ra thành phố, đô thị kiếm sống, làm các thành phần xã hội, quan hệ xã hội ngày càng phức tạp. Lúc này, Đảng Cộng sản Việt Nam mới thành lập (3-2-1930) đã tổ chức được những cuộc đấu tranh lên đến cao trào, tiêu biểu là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), phong trào Mặt trận bình dân (1936-1939), cao trào vận động giải phóng dân tộc (1939), đặc biệt cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đưa chính quyền về tay nhân dân Việt Nam, mở đầu một thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam, làm thay đổi nhiều lĩnh vực, trong đó có sự phát triển của ngôn ngữ và văn hóa, xã hội.

    Trong giai đoạn này, bên cạnh việc áp dụng các biện pháp khai thác thuộc địa, thực dân Pháp cũng sử dụng nhiều biện pháp áp đặt văn hóa Pháp và tiếng Pháp vào nước ta nhằm đồng hóa Việt Nam về mọi mặt. Ở Việt Nam, sau hàng nghìn năm Bắc thuộc, đến cuối TK XIX, đầu TK XX, Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Hán và tiếng Hán. Giai đoạn này, chữ quốc ngữ cũng du nhập vào Việt Nam và được sử dụng ngày càng phổ biến.

    Như vậy, giai đoạn cuối TK XIX đến năm 1945, tiếng Việt nói chung, tiếng Việt Nam Bộ nói riêng bắt đầu bước vào một bối cảnh xã hội, ngôn ngữ mới. Cảnh huống ngôn ngữ lúc này có 3 ngôn ngữ: tiếng Pháp, tiếng Việt và tiếng Hán; có 4 văn tự là chữ Pháp, chữ Hán, chữ Nôm và chữ quốc ngữ. Giai đoạn này, tiếng Việt đang trong trạng thái chuyển từ cảnh huống ngôn ngữ thời phong kiến sang cảnh huống ngôn ngữ xã hội thực dân nửa phong kiến. Trong bối cảnh xã hội như vậy, tiếng Việt ở Nam Bộ cũng có nhiều đặc trưng riêng, khác với Bắc Kỳ và Trung Kỳ, phản ánh trung thực lịch sử, văn hóa, xã hội của vùng Nam Bộ trong giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945 

    Chúc bn học tốt

    Bình luận

Viết một bình luận