Bài tập 6: Cho câu chủ đề: “Trong hai khổ đầu bài thơ “Ông đồ”, tác giả Vũ Đình Liên đã cho ta thấy hình ảnh ông đồ thời đắc ý”. Em hãy viết đoạn văn tổng – phân – hợp làm rõ câu chủ đề trên. Đoạn văn khoảng 12 câu, trong đó có sử dụng câu nghi vấn – gạch chân).
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồ.
– Hai khổ thơ đầu là hình ảnh ông đồ thời Nho học còn được trọng vọng.
2. Thân bài:
– Hình ảnh ông đồ xuất hiện gắn liền với hình ảnh hoa đào báo hiệu mùa xuân về.
+ Ông đồ và hoa đào là hình ảnh gắn liền với nhau, báo hiệu cho năm mới
+ Cặp từ “Mỗi năm … lại”: sự quen thuộc, lặp đi lặp lại như thói quen thường niên, đối với ông đồ và với mọi người.
+ Hình ảnh ông đồ cùng giấy đỏ, mực tàu: hình ảnh quen thuộc ăn sâu vào tâm trí con người mỗi khi tết đến xuân về.
=> Hình ảnh đẹp đẽ nhất, bình dị, trầm lặng giữa cái xô bồ của phố xá thời điểm giao mùa.
=> Hình ảnh ông đồ in sâu vào tiềm thức con người Việt Nam.
– Hình ảnh ông đồ thời kì này là trung tâm điểm thu hút sự chú ý của mọi người:
+ Chỉ yên lặng ngồi bên phố, thế nhưng, ông đồ lại thu hút sự chú ý của tất cả mọi người
+ “Bao nhiêu người thuê viết”: Ai cũng muốn có được nét chữ của ông đồ để mà trưng bày trong nhà, để thưởng ngoạn ngòi bút tài hoa của ông.
– Tài năng của ông đồ được khẳng định bằng lời khen ngợi của mọi người
+ Từng nét bút tung bay trên giấy đỏ khiến cho mọi người phải vỗ tay khen ngợi,
+ Ngòi bút bay bổng “như rồng múa phượng bay” => vô cùng đẹp đẽ.
=> Khổ thơ thứ hai được dựng lên để minh chứng cho tài nghệ cũng như khẳng định tài hoa của ông đồ.
– Ông đồ thời kì này trở thành một nét văn hóa đặc sắc trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Đây là thời kì vàng son của những ông đồ viết chữ thuê.
3. Kết bài
– Khẳng định lại vấn đề.
Cảm nhận khổ thơ 1, 2 bài thơ Ông đồ – Mẫu 1
Sự trượt dốc của nền Nho học đã kéo theo cả một lớp người trở thành nạn nhân đau khổ. Ông đồ của Vũ Đình Liên là một chứng tích cho một vẻ đẹp không bao giờ trở lại. Là hình ảnh đã ăn sâu vào tiềm thức mọi người và vì thế chưa mất đi hoàn toàn, nhất là đối với những con người có tâm trạng hoài niệm cho vẻ đẹp quá khứ như Vũ Đình Liên. Khi mà chữ nghĩa thánh hiền cao quý không còn vị trí, phải ra tận vỉa hè, đường phố, đã trở thành một món hàng… con người ta mới thảng thốt, giật mình, xót xa cho ánh hào quang rực rỡ một thời. Tâm sự ấy đã được thể hiện trong bài thơ tạo nên sự giao thoa đồng cảm giữa nhân vật trữ tình và chủ thể trữ tình:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Ở đó là những hình ảnh, ấn tượng đã hằn sâu trong kí ức của chàng thanh niên còn rất trẻ. Là sự tuần hoàn của hoa đào, của ông đồ, của mực tàu, giấy đỏ tạo nên một nét riêng thiêng liêng của không gian văn hoá dân tộc khi Tết đến, xuân về. Nhưng ta không khỏi chạnh lòng trước cảnh ông đồ phải sống lay lắt trên con đường mưu sinh của mình. Vẻ già nua đáng thương hay là đạo học sắp suy tàn? Trớ trêu thay, nơi ông có thể níu giữ vẻ đẹp văn hoá, nơi ông có thể kiếm sống lại là “bên phố đông người qua”. Hình bóng lẻ loi, cô độc của con người như bất lực trước hiện thực phũ phàng. Trong dòng đời hối hả trôi, hiện lên hình ảnh ông đồ đang gò trên từng con chữ tài năng và tâm huyết của một đời người ngay giữa chợ đời:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Đó là dư vang của một thời, nhưng cũng là hình ảnh đáng buồn trong sự chống chọi vô vọng, như một ánh nắng cuối ngày rực rỡ, bùng lên khi ngày đã sắp tàn. Cái cảnh xúm xít, chen lấn để mua một câu đối, một đôi chữ Nho mới đau đớn làm sao. Trong từng người ấy, có ai thật sự cảm thấy xót xa cho sự xuống cấp thảm hại của chữ Thánh Hiền – một giá trị tinh thần được đặt xuống ngang hàng với giá trị vật chất?
Cảm nhận khổ thơ 1, 2 bài thơ Ông đồ – Mẫu 2
Sự xuất hiện của ông đồ gắn liền với vòng quay đều đặn của thời gian, cứ thế không thể khác:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”.
Thời gian được tính bằng hoa đào nở y tín hiệu báo xuân, sắc màu được dệt nên bởi sắc đào tươi thắm, giấy đỏ rực rỡ, nhịp sống được tính bằng phố đông người qua, tình cảm của người đời được biểu hiện bằng hình ảnh: Bao nhiêu người thuê viết, tấm tắc ngợi khen tài.
Nổi bật trên phông nền rực rỡ, tươi vui đó là chân dung ông đồ, người nghệ sỹ trong niềm thán phục, ngưỡng mộ của mọi người:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay.
Hoa đào đến đây đã nhường chỗ cho hoa tay y bàn tay tài hoa của ông đồ đưa đến đâu mà như gấm hoa nở ra đến đó. Nét chữ từ bàn tay như có phép tiên của ông được so sánh như phượng múa rồng bay. Đây là hình ảnh so sánh đẹp, giàu giá trị tạo hình, nét thăng hoa trong ngôn ngữ của Vũ Đình Liên gợi tả nét chữ mềm mại mà linh thiêng, phóng khoáng mà cao nhã, có hồn như phượng múa, rồng bay. Nét chữ ấy dường như cũng chấp chới bay lên giữa hào quang của trời xuân, của sắc đào tươi thắm. Đây là một nét vẽ đẹp, ngợi ca ông đồ, một tài năng nghệ thuật.
Ta nhớ tới cây bút thần của Lê Mã Lương trong một câu chuyện cổ Trung Quốc, nét bút đưa đến đâu, vạn vật như có thần sống dậy, sinh sôi đến đó, vẽ chim, chim cất cánh bay, vẽ công, công xòe ra múa lượn… Bao nhiêu tài năng, tâm huyết của ông đồ được gửi gắm trong nét chữ tài hoa đó. Đây là thời kỳ đắc ý nhất của ông: cái đẹp lên ngôi, tài năng được trân trọng.