biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông cửu long
– thực trạng
– nguyên nhân
– hậu quả
– giải pháp
NHỜ VẠCH RÕ CÁC Ý GIÚP MK Ạ
0 bình luận về “biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông cửu long – thực trạng – nguyên nhân – hậu quả – giải pháp NHỜ VẠCH RÕ CÁC Ý GIÚP MK Ạ”
Theo đánh giá của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cho thấy, tác động của biến đổi khí hậu lên vùng ĐBSCL ngày càng rõ nét. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn thường xuyên xảy ra. Biến đối khí hậu đã tạo ra các tác động kinh tế xã hội sâu rộng, không những ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất mà còn nông nghiệp mà còn làm thay đổi các cấu trúc cung cầu hàng hóa và dịch vụ của hầu hết mọi ngóc ngách của nền kinh tế.
GS,TS Nguyễn Trọng Hoài, Phó Hiệu trưởng Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, cho biết: “Vừa qua, xâm nhập mặn với nồng độ 4‰ hơn 100km dẫn đến hàng chục ngàn héc-ta lúa bị mất trắng. Các hậu quả này là chủ yếu của các hình thái biến đổi khí hậu, do lượng mưa giảm và nước biển dâng. ĐBSCL đóng góp 1/5 GDP của cả nước trên diện tích chỉ 1/8 cả nước, cung cấp gần 60% sản lượng lúa và 40% lượng thuỷ sản. Nhưng theo các nghiên cứu của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ngân hàng Thế giới, trong vòng 100 năm nữa, ĐBSCL sẽ thấp hơn mực nước biển một mét. Hiện nay, các nghiên cứu khảo sát ở Cà Mau mỗi năm sụt lún khoảng 1 – 1,5cm, do đó điều này có thể xảy ra. Nỗi lo lớn nhất đối với ĐBSCL do biến đổi khí hậu gây ra là nước biển dâng”.
Theo GS,TS Nguyễn Văn Thắng, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường, những biểu hiện của biến đổi khí hậu ở ĐBSCL là nhiệt độ có xu thế tăng lên trong toàn khu vực với mức tăng từ 0,4 đến 1,6 độ C/61 năm; lượng mưa có xu thế gia tăng từ 1,5-20% trong vòng 61 năm nhưng xu thế tăng mưa mùa đông, mùa xuân, giảm ở mùa hè và các tỉnh ven biển; các hiện tượng cực đoan như số ngày nắng nóng kéo dài; xu thế nước biểng dâng từ 3,5-8,7mm/năm; hạn hán tăng từ 0,05-0,2 đơn vị/61 năm.
Nhận định về những tác động của biến đổi khí hậu đối với ĐBSCL, GS,TS Nguyễn Văn Thắng cho biết thêm, nước biển dâng là thách thức lớn nhất của đồng bằng châu thổ này. Nếu nước biểng dâng cao 100cm, sẽ có khoảng 38% diện tích có nguy cơ bị ngập. Trong đó, các tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất là Hậu Giang (80,62%), Kiên Giang (76,86%) và Cà Mau (57,69%). Khi đó, ảnh hưởng của nước mặn thường xuyên nhiều vùng bảo tồn đất ngập nước như Tràm Chim, U Minh Thượng, Làng Sen, Trà Rai, Hà Tiên, Bãi Bồi, Đất Mũi trở nên kém bền vững hơn.
Bên cạnh đó, một số sinh vật có thể bị tiêu diệt, 1/3 “vựa thóc” của cả nước bị ngập, 85% dân cư cần được hỗ trợ về nông nghiệp, đất bị suy thoái, hiện tượng di dân làm xáo trộn quy hoạch đô thị,… Cùng với đó, xói lởi bờ sông, bờ biển và giảm dòng chảy mùa khô cũng là những vấn đề rất đáng quan tâm.
Tại Vĩnh Long, tác động của biến đổi khí hậu ngày càng nhanh hơn liên tiếp các tháng mùa khô năm 2009, 2010, 2011, 2016 và 2019, độ mặn cao nhất trên các sông lớn của địa bàn. Hai huyện Vũng Liêm và Trà Ôn đều xấp xỉ 5‰.
Đặc biệt, mùa khô 2019, mặn xuất hiện sớm, xâm nhập sâu và lập kỷ lục mới vượt đỉnh năm 2016 và kéo dài đến tháng 5. Đỉnh mặn đo được trên sông Cổ Chiên tại hai huyện Vũng Liêm và Mang Thít lên cao từ 6,2-10‰, sông Hậu tại huyện Trà Ôn lên đến 7,8‰. Đặc biệt, phía sông Tiền tại các xã cù lao Bình Hòa Phước, Đồng Phú dù cách cửa biển đến 90km nhưng vẫn xuất hiện nước mặn với nồng độ 4‰.
Bên cạnh đó, tỉnh Vĩnh Long có hơn 100 điểm sạt lở mất hàng chục ha đất. Thiệt hại do thiên tai ở Vĩnh Long từ đầu năm đến tháng 8-2020 là 334 tỷ đồng.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long Nguyễn Văn Liệt lo lắng: “Hiện tượng thời tiết cực đoan đã ảnh hưởng đến đời sống sinh kế của nhân dân. Năm qua, tỉnh chịu ảnh hưởng không nhỏ của biến đổi khí hậu. Tình trạng xâm nhập mặn ảnh hưởng lớn đến diện tích gieo trồng, cây ăn trái và nuôi trồng thuỷ sản. Năm rồi thiệt hại không lớn nhờ sự chuẩn bị nhưng mặn cũng đã đến cầu Mỹ Thuận. Dự báo thì càng ngày càng gay gắt. Vì vậy, giải pháp căn cơ thế nào cần các nhà khoa học, cần nhiều ngành, kể cả cộng đồng tham gia giải pháp hiệu quả cho Vĩnh Long và ĐBSCL. Không thể trồng cây sầu riêng, cây chôm chôm, kể cả lúa vụ 3 thì trồng cây gì thích ứng với biến đổi khí hậu? Thực tế đó đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, định hướng chiến lược phát triển bền vững căn cơ đồng bộ; huy động tối đa các nguồn lực, các thành phần kinh tế để thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững ĐBSCL. Đây là bài toán rất là lớn, rất cần các nhà khoa học trả lời câu hỏi này với nhân dân”
Đây là những thực trạng
Hậu quả nha bạn
Cho mình 5 sao
Nếu nước biểng dâng cao 100cm, sẽ có khoảng 38% diện tích có nguy cơ bị ngập. Trong đó, các tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất là Hậu Giang (80,62%), Kiên Giang (76,86%) và Cà Mau (57,69%). Khi đó, ảnh hưởng của nước mặn thường xuyên nhiều vùng bảo tồn đất ngập nước như Tràm Chim, U Minh Thượng, Làng Sen, Trà Rai, Hà Tiên, Bãi Bồi, Đất Mũi trở nên kém bền vững hơn.
Bên cạnh đó, một số sinh vật có thể bị tiêu diệt, 1/3 “vựa thóc” của cả nước bị ngập, 85% dân cư cần được hỗ trợ về nông nghiệp, đất bị suy thoái, hiện tượng di dân làm xáo trộn quy hoạch đô thị,… Cùng với đó, xói lởi bờ sông, bờ biển và giảm dòng chảy mùa khô cũng là những vấn đề rất đáng quan tâm.
Tại Vĩnh Long, tác động của biến đổi khí hậu ngày càng nhanh hơn liên tiếp các tháng mùa khô năm 2009, 2010, 2011, 2016 và 2019, độ mặn cao nhất trên các sông lớn của địa bàn. Hai huyện Vũng Liêm và Trà Ôn đều xấp xỉ 5‰.
Đặc biệt, mùa khô 2019, mặn xuất hiện sớm, xâm nhập sâu và lập kỷ lục mới vượt đỉnh năm 2016 và kéo dài đến tháng 5. Đỉnh mặn đo được trên sông Cổ Chiên tại hai huyện Vũng Liêm và Mang Thít lên cao từ 6,2-10‰, sông Hậu tại huyện Trà Ôn lên đến 7,8‰. Đặc biệt, phía sông Tiền tại các xã cù lao Bình Hòa Phước, Đồng Phú dù cách cửa biển đến 90km nhưng vẫn xuất hiện nước mặn với nồng độ 4‰.
Bên cạnh đó, tỉnh Vĩnh Long có hơn 100 điểm sạt lở mất hàng chục ha đất. Thiệt hại do thiên tai ở Vĩnh Long từ đầu năm đến tháng 8-2020 là 334 tỷ đồng.
Nguyên nhân: Nguyên nhân khách quan (do sự biến đổi của tự nhiên) bao gồm: sự biến đổi các hoạt động của mặt trời, sự thay đổi quỹ đạo trái đất, sự thay đổi vị trí và quy mô của các châu lục, sự biến đổi của các dạng hải lưu, và sự lưu chuyển trong nội bộ hệ thống khí quyển. + Nguyên nhân chủ quan (do sự tác động của con người) xuất phát từ sự thay đổi mục đích sử dụng đất và nguồn nước và sự gia tăng lượng phát thải khí CO2 và các khí nhà kính khác từ các hoạt động của con người. Như vậy, biến đổi khí hậu không chỉ là hậu quả của hiện tượng hiệu ứng nhà kính (sự nóng lên của trái đất) mà còn bởi nhiều nguyên nhân khác. Tuy nhiên, có rất nhiều bằng chứng khoa học cho thấy tồn tại mối quan hệ giữa quá trình tăng nhiệt độ trái đất với quá trình tăng nồng độ khí CO2 và các khí nhà kính khác trong khí quyển, đặc biệt trong kỷ nguyên công nghiệp. Trong suốt gần 1 triệu năm trước cách mạng công nghiệp, hàm lượng khí CO2 trong khí quyển nằm trong khoảng từ 170 đến 280 phần triệu (ppm). Hiện tại, con số này đã tăng cao hơn nhiều và ở mức 387 ppm và sẽ còn tiếp tục tăng với tốc độ nhanh hơn nữa. Chính vì vậy, sự gia tăng nồng độ khí CO2 trong khí quyển sẽ làm cho nhiệt độ trái đất tăng và nguyên nhân của vấn đề biến đổi khí hậu là do trái đất không thể hấp thụ được hết lượng khí CO2 và các khí gây hiệu ứng nhà kính khác đang dư thừa trong bầu khí quyển.
Hậu quả:“Hiện tượng thời tiết cực đoan đã ảnh hưởng đến đời sống sinh kế của nhân dân. Năm qua, tỉnh chịu ảnh hưởng không nhỏ của biến đổi khí hậu. Tình trạng xâm nhập mặn ảnh hưởng lớn đến diện tích gieo trồng, cây ăn trái và nuôi trồng thuỷ sản. Năm rồi thiệt hại không lớn nhờ sự chuẩn bị nhưng mặn cũng đã đến cầu Mỹ Thuận. Dự báo thì càng ngày càng gay gắt.
Giải pháp:Trước những nguy cơ và thách thức trên, Hội thảo được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, phân tích, lượng hóa một cách khoa học để làm cơ sở xây dựng các chính sách giảm thiểu và thích ứng biến đổi khí hậu ứng cứu cho người dân vùng ĐBSCL.
Theo đánh giá của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cho thấy, tác động của biến đổi khí hậu lên vùng ĐBSCL ngày càng rõ nét. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn thường xuyên xảy ra. Biến đối khí hậu đã tạo ra các tác động kinh tế xã hội sâu rộng, không những ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất mà còn nông nghiệp mà còn làm thay đổi các cấu trúc cung cầu hàng hóa và dịch vụ của hầu hết mọi ngóc ngách của nền kinh tế.
GS,TS Nguyễn Trọng Hoài, Phó Hiệu trưởng Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, cho biết: “Vừa qua, xâm nhập mặn với nồng độ 4‰ hơn 100km dẫn đến hàng chục ngàn héc-ta lúa bị mất trắng. Các hậu quả này là chủ yếu của các hình thái biến đổi khí hậu, do lượng mưa giảm và nước biển dâng. ĐBSCL đóng góp 1/5 GDP của cả nước trên diện tích chỉ 1/8 cả nước, cung cấp gần 60% sản lượng lúa và 40% lượng thuỷ sản. Nhưng theo các nghiên cứu của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ngân hàng Thế giới, trong vòng 100 năm nữa, ĐBSCL sẽ thấp hơn mực nước biển một mét. Hiện nay, các nghiên cứu khảo sát ở Cà Mau mỗi năm sụt lún khoảng 1 – 1,5cm, do đó điều này có thể xảy ra. Nỗi lo lớn nhất đối với ĐBSCL do biến đổi khí hậu gây ra là nước biển dâng”.
Theo GS,TS Nguyễn Văn Thắng, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường, những biểu hiện của biến đổi khí hậu ở ĐBSCL là nhiệt độ có xu thế tăng lên trong toàn khu vực với mức tăng từ 0,4 đến 1,6 độ C/61 năm; lượng mưa có xu thế gia tăng từ 1,5-20% trong vòng 61 năm nhưng xu thế tăng mưa mùa đông, mùa xuân, giảm ở mùa hè và các tỉnh ven biển; các hiện tượng cực đoan như số ngày nắng nóng kéo dài; xu thế nước biểng dâng từ 3,5-8,7mm/năm; hạn hán tăng từ 0,05-0,2 đơn vị/61 năm.
Nhận định về những tác động của biến đổi khí hậu đối với ĐBSCL, GS,TS Nguyễn Văn Thắng cho biết thêm, nước biển dâng là thách thức lớn nhất của đồng bằng châu thổ này. Nếu nước biểng dâng cao 100cm, sẽ có khoảng 38% diện tích có nguy cơ bị ngập. Trong đó, các tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất là Hậu Giang (80,62%), Kiên Giang (76,86%) và Cà Mau (57,69%). Khi đó, ảnh hưởng của nước mặn thường xuyên nhiều vùng bảo tồn đất ngập nước như Tràm Chim, U Minh Thượng, Làng Sen, Trà Rai, Hà Tiên, Bãi Bồi, Đất Mũi trở nên kém bền vững hơn.
Bên cạnh đó, một số sinh vật có thể bị tiêu diệt, 1/3 “vựa thóc” của cả nước bị ngập, 85% dân cư cần được hỗ trợ về nông nghiệp, đất bị suy thoái, hiện tượng di dân làm xáo trộn quy hoạch đô thị,… Cùng với đó, xói lởi bờ sông, bờ biển và giảm dòng chảy mùa khô cũng là những vấn đề rất đáng quan tâm.
Tại Vĩnh Long, tác động của biến đổi khí hậu ngày càng nhanh hơn liên tiếp các tháng mùa khô năm 2009, 2010, 2011, 2016 và 2019, độ mặn cao nhất trên các sông lớn của địa bàn. Hai huyện Vũng Liêm và Trà Ôn đều xấp xỉ 5‰.
Đặc biệt, mùa khô 2019, mặn xuất hiện sớm, xâm nhập sâu và lập kỷ lục mới vượt đỉnh năm 2016 và kéo dài đến tháng 5. Đỉnh mặn đo được trên sông Cổ Chiên tại hai huyện Vũng Liêm và Mang Thít lên cao từ 6,2-10‰, sông Hậu tại huyện Trà Ôn lên đến 7,8‰. Đặc biệt, phía sông Tiền tại các xã cù lao Bình Hòa Phước, Đồng Phú dù cách cửa biển đến 90km nhưng vẫn xuất hiện nước mặn với nồng độ 4‰.
Bên cạnh đó, tỉnh Vĩnh Long có hơn 100 điểm sạt lở mất hàng chục ha đất. Thiệt hại do thiên tai ở Vĩnh Long từ đầu năm đến tháng 8-2020 là 334 tỷ đồng.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long Nguyễn Văn Liệt lo lắng: “Hiện tượng thời tiết cực đoan đã ảnh hưởng đến đời sống sinh kế của nhân dân. Năm qua, tỉnh chịu ảnh hưởng không nhỏ của biến đổi khí hậu. Tình trạng xâm nhập mặn ảnh hưởng lớn đến diện tích gieo trồng, cây ăn trái và nuôi trồng thuỷ sản. Năm rồi thiệt hại không lớn nhờ sự chuẩn bị nhưng mặn cũng đã đến cầu Mỹ Thuận. Dự báo thì càng ngày càng gay gắt. Vì vậy, giải pháp căn cơ thế nào cần các nhà khoa học, cần nhiều ngành, kể cả cộng đồng tham gia giải pháp hiệu quả cho Vĩnh Long và ĐBSCL. Không thể trồng cây sầu riêng, cây chôm chôm, kể cả lúa vụ 3 thì trồng cây gì thích ứng với biến đổi khí hậu? Thực tế đó đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, định hướng chiến lược phát triển bền vững căn cơ đồng bộ; huy động tối đa các nguồn lực, các thành phần kinh tế để thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững ĐBSCL. Đây là bài toán rất là lớn, rất cần các nhà khoa học trả lời câu hỏi này với nhân dân”
Đây là những thực trạng
Hậu quả nha bạn
Cho mình 5 sao
Thực trạng :.
Nếu nước biểng dâng cao 100cm, sẽ có khoảng 38% diện tích có nguy cơ bị ngập. Trong đó, các tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất là Hậu Giang (80,62%), Kiên Giang (76,86%) và Cà Mau (57,69%). Khi đó, ảnh hưởng của nước mặn thường xuyên nhiều vùng bảo tồn đất ngập nước như Tràm Chim, U Minh Thượng, Làng Sen, Trà Rai, Hà Tiên, Bãi Bồi, Đất Mũi trở nên kém bền vững hơn.
Bên cạnh đó, một số sinh vật có thể bị tiêu diệt, 1/3 “vựa thóc” của cả nước bị ngập, 85% dân cư cần được hỗ trợ về nông nghiệp, đất bị suy thoái, hiện tượng di dân làm xáo trộn quy hoạch đô thị,… Cùng với đó, xói lởi bờ sông, bờ biển và giảm dòng chảy mùa khô cũng là những vấn đề rất đáng quan tâm.
Tại Vĩnh Long, tác động của biến đổi khí hậu ngày càng nhanh hơn liên tiếp các tháng mùa khô năm 2009, 2010, 2011, 2016 và 2019, độ mặn cao nhất trên các sông lớn của địa bàn. Hai huyện Vũng Liêm và Trà Ôn đều xấp xỉ 5‰.
Đặc biệt, mùa khô 2019, mặn xuất hiện sớm, xâm nhập sâu và lập kỷ lục mới vượt đỉnh năm 2016 và kéo dài đến tháng 5. Đỉnh mặn đo được trên sông Cổ Chiên tại hai huyện Vũng Liêm và Mang Thít lên cao từ 6,2-10‰, sông Hậu tại huyện Trà Ôn lên đến 7,8‰. Đặc biệt, phía sông Tiền tại các xã cù lao Bình Hòa Phước, Đồng Phú dù cách cửa biển đến 90km nhưng vẫn xuất hiện nước mặn với nồng độ 4‰.
Bên cạnh đó, tỉnh Vĩnh Long có hơn 100 điểm sạt lở mất hàng chục ha đất. Thiệt hại do thiên tai ở Vĩnh Long từ đầu năm đến tháng 8-2020 là 334 tỷ đồng.
Nguyên nhân: Nguyên nhân khách quan (do sự biến đổi của tự nhiên) bao gồm: sự biến đổi các hoạt động của mặt trời, sự thay đổi quỹ đạo trái đất, sự thay đổi vị trí và quy mô của các châu lục, sự biến đổi của các dạng hải lưu, và sự lưu chuyển trong nội bộ hệ thống khí quyển.
+ Nguyên nhân chủ quan (do sự tác động của con người) xuất phát từ sự thay đổi mục đích sử dụng đất và nguồn nước và sự gia tăng lượng phát thải khí CO2 và các khí nhà kính khác từ các hoạt động của con người.
Như vậy, biến đổi khí hậu không chỉ là hậu quả của hiện tượng hiệu ứng nhà kính (sự nóng lên của trái đất) mà còn bởi nhiều nguyên nhân khác. Tuy nhiên, có rất nhiều bằng chứng khoa học cho thấy tồn tại mối quan hệ giữa quá trình tăng nhiệt độ trái đất với quá trình tăng nồng độ khí CO2 và các khí nhà kính khác trong khí quyển, đặc biệt trong kỷ nguyên công nghiệp. Trong suốt gần 1 triệu năm trước cách mạng công nghiệp, hàm lượng khí CO2 trong khí quyển nằm trong khoảng từ 170 đến 280 phần triệu (ppm). Hiện tại, con số này đã tăng cao hơn nhiều và ở mức 387 ppm và sẽ còn tiếp tục tăng với tốc độ nhanh hơn nữa. Chính vì vậy, sự gia tăng nồng độ khí CO2 trong khí quyển sẽ làm cho nhiệt độ trái đất tăng và nguyên nhân của vấn đề biến đổi khí hậu là do trái đất không thể hấp thụ được hết lượng khí CO2 và các khí gây hiệu ứng nhà kính khác đang dư thừa trong bầu khí quyển.
Hậu quả:“Hiện tượng thời tiết cực đoan đã ảnh hưởng đến đời sống sinh kế của nhân dân. Năm qua, tỉnh chịu ảnh hưởng không nhỏ của biến đổi khí hậu. Tình trạng xâm nhập mặn ảnh hưởng lớn đến diện tích gieo trồng, cây ăn trái và nuôi trồng thuỷ sản. Năm rồi thiệt hại không lớn nhờ sự chuẩn bị nhưng mặn cũng đã đến cầu Mỹ Thuận. Dự báo thì càng ngày càng gay gắt.
Giải pháp:Trước những nguy cơ và thách thức trên, Hội thảo được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, phân tích, lượng hóa một cách khoa học để làm cơ sở xây dựng các chính sách giảm thiểu và thích ứng biến đổi khí hậu ứng cứu cho người dân vùng ĐBSCL.