các giai đoạn chính cuộc khởi nghĩa lam sơn?trình bày những nét chính trong giai đoạn đó
0 bình luận về “các giai đoạn chính cuộc khởi nghĩa lam sơn?trình bày những nét chính trong giai đoạn đó”
– Ngày 7-2-1418,Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn và tự xưng là Bình Định Vương.
– Những năm đầu, lực lượng nghĩa quân còn yếu và gặp nhiều khó khăn. Quân Minh tấn công nhiều lần, nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh ba lần.
– Giữa năm 1418,nhà Minh huy động quân bao vây căn cứ Chí Linh, quyết bắt giết Lê Lợi.
– Trong hoàn cảnh nguy cấp, Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi, chỉ huy một toán quân liều chết phá vòng vây quân giặc. Lê Lai cùng toán quân cảm tử đã hi sinh. Quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân.
– Cuối năm 1421, hơn 10 vạn quân Minh mở cuộc vây quét lớn vào căn cứ của nghĩa quân. Lê Lợi phải rút quân lên núi Chí Linh. Tại đây, nghĩa quân gặp muôn vàn khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét. Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân.
– Mùa hè năm 1423,Lê Lợi đề nghị tạm hoà và được quân Minh chấp thuận. Tháng 5-1423, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn.
Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo kéo dài 9 năm, từ 1418 đến 1427, được chia làm 3 giai đoạn lớn gồm: hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa (1418-1423), tiến quân chiến lược vào phía nam (1424-1425) và giải phóng Đông Quan (1426-1427).
Trước cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi cùng 18 người khác tổ chức hội thề Lũng Nhai (thuộc huyện Thường Xuân, Thanh Hóa), nguyện sống chết có nhau. Theo sách Lịch sử Việt Nam, trừ Lê Lợi thuộc tầng lớp địa chủ, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Trãi là quan lại cũ và Lê Văn Linh là sĩ phu, còn lại 15 người thuộc tầng lớp bình dân như Lê Văn An xuất thân nông dân, Nguyễn Thận gốc dân chài, Trịnh Khả xuất thân nô tì…
19 người tham gia hội thề Lũng Nhai đã thể hiện sự tập hợp đông đủ mọi tầng lớp trong xã hội, trong đó thành phần xuất thân nông dân chiếm số đông. Đây chính là hình ảnh của khối đoàn kết toàn dân. Từ những hạt nhân đầu tiên của hội thề này, anh hùng hào kiệt khắp nơi dần dần quy tụ về Lam Sơn.
Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, xưng là Bình Định vương và truyền hịch đi khắp nơi kêu gọi nhân dân hưởng ứng. Theo Lam Sơn thực lục, lực lượng ban đầu của cuộc khởi nghĩa gồm 51 tướng văn võ, 200 quân thiết kỵ, 200 nghĩa sĩ, 14 con voi… tổng cộng khoảng 2.000 người. So với quân Minh lúc đó hơn 45 nghìn, voi ngựa hàng trăm con thì lực lượng của nghĩa quân quá ít. Vì vậy, giai đoạn hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa là khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa.
– Ngày 7-2-1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn và tự xưng là Bình Định Vương.
– Những năm đầu, lực lượng nghĩa quân còn yếu và gặp nhiều khó khăn. Quân Minh tấn công nhiều lần, nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh ba lần.
– Giữa năm 1418, nhà Minh huy động quân bao vây căn cứ Chí Linh, quyết bắt giết Lê Lợi.
– Trong hoàn cảnh nguy cấp, Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi, chỉ huy một toán quân liều chết phá vòng vây quân giặc. Lê Lai cùng toán quân cảm tử đã hi sinh. Quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân.
– Cuối năm 1421, hơn 10 vạn quân Minh mở cuộc vây quét lớn vào căn cứ của nghĩa quân. Lê Lợi phải rút quân lên núi Chí Linh. Tại đây, nghĩa quân gặp muôn vàn khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét. Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân.
– Mùa hè năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hoà và được quân Minh chấp thuận. Tháng 5-1423, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn.
Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo kéo dài 9 năm, từ 1418 đến 1427, được chia làm 3 giai đoạn lớn gồm: hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa (1418-1423), tiến quân chiến lược vào phía nam (1424-1425) và giải phóng Đông Quan (1426-1427).
Trước cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi cùng 18 người khác tổ chức hội thề Lũng Nhai (thuộc huyện Thường Xuân, Thanh Hóa), nguyện sống chết có nhau. Theo sách Lịch sử Việt Nam, trừ Lê Lợi thuộc tầng lớp địa chủ, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Trãi là quan lại cũ và Lê Văn Linh là sĩ phu, còn lại 15 người thuộc tầng lớp bình dân như Lê Văn An xuất thân nông dân, Nguyễn Thận gốc dân chài, Trịnh Khả xuất thân nô tì…
19 người tham gia hội thề Lũng Nhai đã thể hiện sự tập hợp đông đủ mọi tầng lớp trong xã hội, trong đó thành phần xuất thân nông dân chiếm số đông. Đây chính là hình ảnh của khối đoàn kết toàn dân. Từ những hạt nhân đầu tiên của hội thề này, anh hùng hào kiệt khắp nơi dần dần quy tụ về Lam Sơn.
Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, xưng là Bình Định vương và truyền hịch đi khắp nơi kêu gọi nhân dân hưởng ứng. Theo Lam Sơn thực lục, lực lượng ban đầu của cuộc khởi nghĩa gồm 51 tướng văn võ, 200 quân thiết kỵ, 200 nghĩa sĩ, 14 con voi… tổng cộng khoảng 2.000 người. So với quân Minh lúc đó hơn 45 nghìn, voi ngựa hàng trăm con thì lực lượng của nghĩa quân quá ít. Vì vậy, giai đoạn hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa là khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa.