Câu 1 : (6 điểm) Trình bày cảm nhận của em về bài thơ : CÁC NHÀ TOÁN HỌC CỦA MÙA XUÂN ( Đặng Hấn ) “Cánh én làm p

Câu 1 : (6 điểm)
Trình bày cảm nhận của em về bài thơ :
CÁC NHÀ TOÁN HỌC CỦA MÙA XUÂN
( Đặng Hấn )
“Cánh én làm phép trừ
Trời bớt đi giá rét.
Bầy chim làm phép chia
Niềm vui theo tiếng hót.
Tia nắng làm phép nhân
Trời sáng cao rộng dần.
Vườn hoa làm phép cộng
Số thành là mùa xuân. ”
( Trích ” Văn học và tuổi trẻ ” , số tháng 01 – 2006)
Câu 2 : (14 điểm)
Tình yêu quê hương đất nước là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt các tác phẩm văn học. Bằng sự hiểu biết của mình qua các tác phẩm văn học đã học trong chương trình Ngữ văn 7. Em hãy chứng minh nhận định trên.

0 bình luận về “Câu 1 : (6 điểm) Trình bày cảm nhận của em về bài thơ : CÁC NHÀ TOÁN HỌC CỦA MÙA XUÂN ( Đặng Hấn ) “Cánh én làm p”

  1. Câu 1 :  Bài thơ  Các nhà toán học mùa xuân thuộc thể thơ ngũ ngôn giản dị mà lại rất tươi sáng: Thiên nhiên, vạn vật góp sức đem mùa xuân cho đời .Kết cấu khổ thơ rất đặc biệt, khổ có hai dòng  nét chấm phá diệu kỳ cho tranh ngày xuân. Mỗi cảnh vật góp chút, điểm tô chút tạo mùa xuân tơi đẹp, tràn trề nhựa sống – Những hình ảnh quen thuộc, cụ thể mùa xuân: “cánh én”, “bầy chim”, “tia nắng”, “vờn hoa ” đợc tác giả nhân hóa tài tình, đợc nhìn qua lăng kính trẻ thơ hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu Nhà thơ vùng đất Thái Bình thật khéo cho “cánh én” đa thổii mang lạnh giá mùa đông, đón “nắng” ấm với chim ca lảnh lót, đem chia cho nhà Lẽ thờng phép toán vốn vận vào số xác khoa học Nay cộng, trừ, nhân, chia lại công việc hoa, chim, nắng Để cuối tạo thành đáp số chung kỳ diệu, mùa xuân dâng cho đất trời, cho muôn ngời Phép nhân hóa biến cánh én, bầy chim, tia nắng, vờn hoa thành nhà toán học, vẽ tranh làm thơ xuân – bức trang có phép tính cộng trừ nhâ chia mà sống động, vui tơi, giàu hình ảnh, tràn đầy sức xuân Mùa xuân kết tinh chung đất trời, tạo vật “trừ, nhân, chia, cộng” mà thành Bài thơ ngắn mà thật giàu hình tợng, gợi thật nhiều cảm xúc cho ngời đọc Đọc thơ, ta nh nghe thấy mùa xuân bên cạnh, lan tỏa không gian, rạo rực đất trời – Bài thơ bồi đắp thêm tình yêu thiên nhiên, yêu quê hơng, yêu đẹp sống.
    Câu 2:

    Tình yêu quê hương, đất nước tình cảm tự nhiên trái tim người dân đất Việt Tình yêu bắt nguồn từ sự kiện lịch sử trọng đại dân tộc hay gần gũi tình yêu với thiên nhiên, vạn vật Chính đất nước quê hương đánh thức hồn thơ, tiếng lòng yêu quê hương thi nhân trở thành dòng chảy bất tận văn học Việt Nam nói chung văn học trung đại nói riêng .Hai câu đầu thơ: Nam quốc sơn hà Lý Thờng Kiệt thể hiện niềm tự hào của nhân dân ta  Hai câu đầu thơ: Phò giá kinh Trần Quang Khải niềm tự hào chiến thắng lẫy lừng vào lịch sử với tinh thần Hào khí  gợi lên qua địa danh lịch sử Chương Dương, Hàm Tử, qua từ ngữ thể sức mạnh quật cường, đứng đầu thù đoạt sáo Lòng căm thù giặc sục sôi Hai câu thơ cuối thơ Nam quốc sơn hà lời kết tội đanh thép, đầy sức răn dạy, coi thờng, khinh bỉ, đồng thời cảnh báo cho kẻ thù ngợc với đạo lí, ngợc với lẽ trời đón nhận thất bại tất yếu  Mong cho đất nớc đợc thái bình, thịnh trị, bền vững muôn đời – Hai câu cuối Phò giá kinh Trần Quang Khải như lời tâm tình, nhắn nhủ với mọi người rằng đất nước là của chúng ta kẻ địch ko đc xâm phạm : Giặc ngoại xâm bị quét sạch, đất nớc bình ngời dân phải tu trí lực, phải gắng sức đem tài trí dựng xây đất nớc 

    Bình luận
  2. Chinh phụ ngâm khúc hay còn gọi là Chinh phụ ngâm có nghĩa là khúc ngâm về nỗi lòng sầu thương, nhớ nhung của người vợ trẻ có chồng ra trận, được Đặng Trần Côn người làng Nhân Mục (còn gọi là làng Mọc) nay thuộc quận Thanh Xuân, Hà Nội, sáng tác vào khoảng thời gian từ 1741 – 1742. Thời kì này, chế độ phong kiến đang lâm vào tình trạng rối ren, suy thoái. Các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra khắp nơi. Triều đình ra sức đàn áp, gây nên cảnh nổi da xáo thịt, nhân dân đau khổ, đất nước rối loạn, kinh thành náo động.

    Trước hoàn cảnh đó, trái tim đa cảm của nhà thơ quặn thắt bởi nỗi đau sinh li tử biệt. Ông đã dùng ngòi bút để bày tỏ sự thông cảm và xót thương chân thành, làm rung động lòng người.

    Chinh phụ ngâm khúc nguyên bản được viết bằng chữ Hán, sau đó được nhiều người dịch Nôm. Bản diễn Nôm trong sách Ngữ văn 7 từng được xem là của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748), một phụ nữ tài sắc, người làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, sống cùng thời với Đặng Trần Côn.

    Nhưng lại có ý kiến cho là của nhà nho Phan Huy Ích. Cả nguyên tác và bản diễn Nôm đều được đánh giá là kiệt tác trong lịch sử văn học Việt Nam.

    Nội dung khúc ngâm là tiếng nói ai oán đối với chiến tranh của người chinh phụ, nhưng chung quy chỉ có sầu với nhớ và hết nhớ lại sầu. Nghệ thuật độc đáo của khúc ngâm là miêu tả rất tinh tế diễn biến phức tạp của tâm trạng nhân vật mà không hề lặp lại một cách đơn điệu, nhám chán.

    Đoạn trích sau đây phản ánh diễn biến tâm trạng của người vợ trẻ trong phút chia li. Đây là đoạn hay nhất, thể hiện tập trung nhất tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của nhà thơ.

    Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
    Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn:
    Đoái trông theo đã cách ngăn,
    Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.
    Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
    Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
    Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
    Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
    Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
    Thay xanh xanh những mấy ngàn dâu.
    Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
    Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?… Đoạn trích gồm ba khổ, có thể chia làm ba phần. Phần một tả tâm trạng của người vợ trẻ sau phút chia li. Phần hai tả nỗi nhớ thương sầu muộn ở mức độ cao hơn. Phần ba tả nỗi nhớ thương lên đến cực điểm, không thể nào nguôi. Bốn câu thơ đầu thể hiện tâm trạng chơi vơi, buồn bã của người vợ trẻ qua nghệ thuật đối rất chỉnh: Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
    Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
    Đoái trông theo đã cách ngăn,
    Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh. Chàng thì đi thiếp thì về, hai người hai ngả ngược chiều nhau, mỗi lúc mỗi xa. Thực trạng cuộc chia li đã diễn ra. Chàng thì đi vào cõi xa mưa gió, thiếp thì về với cảnh phòng không chiếc bóng, vò võ năm canh. Bao nhiêu gian truân, vất vả, thậm chí hiểm nguy đối với người ra đi chứa đựng trong mấy từ cõi xa mưa gió rất giàu khả năng gợi tả. Có cái gì đó thật chông chênh, khó lường. Mưa gió trên con đường thiên lí mịt mù phải chăng cũng là mưa gió trong lòng cả kẻ ở lẫn người đi?! Không thể đoán định được những gì đang chờ đợi khách chinh phu ở phía trước, nhưng điều dễ nhận biết là công danh thì hão huyền còn chết chóc lại là hiện thực, một hiện thực nghiệt ngã phũ phàng, khó bề tránh khỏi. Người đi đã khổ, kẻ ở cũng chẳng sung sướng gì. Rồi đây, khi thiếp trở về buồng cữ chiếu chăn vẫn vương vân hơi ấm nồng nàn của tình chồng vợ thì tình cảnh ấy như trêu ngươi, như xoáy vào nỗi đau li biệt đang rớm máu trong lòng chinh phụ. Kể từ đây, nàng sẽ vò võ cô đơn suốt những tháng năm xa cách đầy lo lắng, đợi chờ và hi vọng. Nỗi sầu sinh li tràn ngập cõi lòng người ở lại và dường như thấm cả sang đất trời, cây cỏ. Bóng dáng người đi đã nhạt nhòa, khuất lấp. Cố dõi mắt đoái trông thì cũng chỉ thấy mây biếc, núi xanh trải dài vô tận như nỗi buồn không thể nguôi ngoai. Cách ngăn đã là sự thật khắc nghiệt và nỗi sầu chia li tưởng như đã phủ lên màu biếc của mây, màu xanh của núi. Hình ảnh mây biếc, núi xanh trập trùng có tính ước lệ thường thấy trong thơ cổ đã được cảm xúc chân thành của người trong cuộc làm cho sống động, tự nhiên. Bốn câu thơ tiếp theo tiếp tục miêu tả nỗi nhớ nhung, sầu muộn ở mức độ cao hơn. Đó là nỗi nhớ dằng dặc nối hai đầu xa cách: Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
    Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
    Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
    Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Tác giả vẫn khai thác triệt đế thế mạnh của nghệ thuật đối trong những câu thơ bảy chữ: Chốn Hàm Dương >< Bến Tiêu Tương, chàng còn ngoảnh lại >< thiếp hãy trông sang. Kết hợp với cách sử dụng điệp từ, điệp ngữ và đảo ngữ rất uyển chuyển ở cặp câu lục bát: Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương, Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Tạo thành một cấu trúc khép kín, gợi tình cảm tha thiết, quyến luyến không rời. Trong mấy câu thơ trên tuy có cả con người cùng cảnh vật và tướng như rất thật, nhưng thực ra đây chỉ là bức tranh tâm cảnh. Nhà thơ mượn cảnh để nói đến sự xa xôi, trở ngại về mặt địa lí và thể hiện tâm trạng nhớ nhung, khắc khoải đang chất chứa trong lòng nhân vật. Đồng thời cũng gửi gắm vào đó thái độ bất bình trước cảnh đau lòng: những đôi lứa trẻ trung đang đầm ấm sum vầy bên nhau, chỉ vì chiến tranh mà phải chia li và biết đâu lại là chia li mãi mãi. Hạnh phúc gia đình của họ liệu có vẹn toàn sau bao ngày binh lửa?! Nỗi bất bình trên chính là tiếng nói gián tiếp lên án chiến tranh phi nghĩa của riêng tác giả và của chung nhân dân ta thời bấy giờ. Nếu ở khổ thơ trên, tác giả mới nói đến sự cách ngăn thì đến khổ này, sự cách ngăn đó đã là mấy trùng thăm thẳm. Có điều, sự chia li đã diễn ra trong khi tình cảm, tâm hồn vẫn gắn bó khăng khít. Nhà thơ không chỉ nói đến nỗi sầu chia li mà còn nói đến sự đời oái oăm, nghịch chướng: đôi vợ chồng trẻ muốn gắn bó mà không dược gắn bó, không muốn chia li mà lại phải chia li. Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
    Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
    Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
    Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Khổ thơ cuối tiếp tục dùng phép đối, điệp ngữ, điệp ý (cùng trông, cùng chẳng thấy, ngàn dâu, ngàn dâu, xanh ngắt…) để gợi tả nỗi sầu thương tột độ trong lòng chinh phụ. Lối ngắt nhịp linh hoạt trong từng câu thơ: Cùng trồng lại / mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh / những mấy ngàn dâu, Ngàn dâu / xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? đã góp phần bộc lộ rõ hơn nỗi khắc khoải, xót xa đang vò xé tâm can người đi, kẻ ở. Vẫn là những động thái ban đầu: người ở lại dõi theo, người ra đi ngoảnh lại để kéo dài thêm cảm giác còn được gần nhau, để in sâu thêm hình ảnh của nhau trong tâm khảm… Nhưng giờ đây, sự xa cách chẳng thể lấy Cây Hàm Dương, Bến Tiêu Tương… để mà ước tính được nữa, cho nên mọi cố gắng đều vô vọng. Bóng người đi đã mất hút vào ngàn dâu xanh ngắt. Trớ trêu thay, cái màu xanh vốn tượng trưng cho sức sống và hi vọng trong tình cảnh này chỉ gợi nên một không gian thăm thẳm mênh mông, thấm đẫm môi sầu li biệt. Câu thơ cuối cùng: Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ? không có ý so sánh mà chỉ nhấn mạnh nỗi sầu thương tột độ trong lòng chinh phụ. Đành gửi vào gió, vào mây nỗi nhớ niềm thương khó giãi bày cho hết cửa mình. Qua đoạn trích trên đây, chúng ta có thể thấy được phần nào nỗi sầu chia li của người chinh phụ lúc tiễn chồng ra trận và tấm lòng đầy tình nhân ái của tác giả. Tác phẩm vừa có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa, vừa thể hiện nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi. Chinh phụ ngâm khúc được đánh giá là tác phẩm có nghệ thuật sử dụng điệp từ, điệp ngữ vào loại điêu luyện nhất trong lịch sử thơ ca Việt Nam từ trước tới nay.

    Bình luận

Viết một bình luận