Câu 1: Sự phân công lao động đã được hình thành như thế nào trong xã hội cổ đại. Tại sao lại có sự phân công lao động trong xã hội ?
Câu 2 : Thuật luyện kim ra đời và phát triển như thế nào? Thuật luyện kim ra đời có ý nghĩa gì ?
Câu 3 : Thời Âu Lạc có những thay đổi gì về kinh tế và xã hội? Nguyên nhân nào dẫn đến sự phân biệt giàu nghèo và mâu thuẫn giai cấp xã hội ?
Câu 4 : Tại sao người nguyên thủy lại chôn theo người chế những dụng cụ lao động ?
Câu 5 : Em hãy vẽ sơ đồ bộ máy nhà nước Văn Lang? Cho biết đời sống vật chất của cư dân Văn Lang? Em có nhận xét gì về đời sống vật chất cư dân Văn Lang?
GIÚP EM VỚI MN ĐANG CẦN NHANH ! HỨA VOTE, TRẢ LỜI HAY NHẤT, CẢM ƠN
1. Sự phân công lao động đã được hình thành như thế nào?
– Từ khi thuật luyện kim được phát minh và nghề nông trồng lúa nước ra đời con người phải chuyên tâm làm một số việc nhất định; sự phân công lao động đã được hình thành:
+ Phụ nữ ngoài việc nhà, thường tham gia sản xuất nông nghiệp, làm đồ gốm và dệt vải.
+ Nam giới: một phần sản xuất nông nghiệp, đi săn, đánh cá; một phần chuyên hơn làm việc chế tác công cụ, đúc đồng, làm đồ trang sức…
2. Trình độ sản xuất, công cụ của người Việt cổ.Phát minh ra thuật luyện kim
* Trình độ sản xuất, công cụ của người Việt cổ.
– Ở Phùng Nguyên (Phú Thọ), Hoa Lộc (Thanh Hóa), Lung Leng (Kon Tum), cách đây 4000-3500 năm, phát hiện hàng loạt công cụ:
+ Rìu đá, bôn đá được mài nhẵn toàn bộ, hình dáng cân xứng
+ Đồ trang sức
+ Các loại đồ gốm với hoa văn đa dạng.
=>Trình độ cao về kĩ thuật chế tác công cụ
*. Phát minh ra thuật luyện kim:
– Nhờ phát triển của nghề làm gốm, người Phùng Nguyên, Hoa Lộc đã phát minh ra thuật luyện kim.
– Kim loại được dùng đầu tiên là đồng
* Ý nghĩa :
– Đánh dấu bước tiến trong chế tác công cụ
– Tăng năng suất lao động .
3. Xã hội có gì đổi mới?
– Sản xuất phát triển, cuộc sống ngày càng ổn định-> hình thành các làng bản (chiềng, chạ)
– Dần dần hình thành các cụm chiềng chạ, có quan hệ chặt chẽ với nhau được gọi là bộ lạc.
– Chế độ phụ hệ dần thay thế chế độ mẫu hệ.
– Xã hội có người giàu, người nghèo.
4.
* Những điểm mới trong đời sống tinh thần của người nguyên thủy:
– Họ biết làm đẹp bằng việc làm đồ trang sức từ những vỏ ốc được xuyên lỗ, vòng tay đá, những hạt chuỗi bằng đất nung.
– Biết vẽ trên vách hang động những hình mô tả cuộc sống của mình.
– Tình cảm giữa những người cùng huyết thống trong chế độ thị tộc ngày càng gắn bó.
– Hình thành một số phong tục, tập quán: Tục chôn cất người chết có chôn theo công cụ lao động.
* Nhận xét:
– Việc chôn công cụ sản xuất theo người chết chứng tỏ xã hội đã bắt đầu có sự phân hóa giàu nghèo.
5.
– Sơ đồ bộ máy nhà nước Văn Lang:
Đứng đầu là Hùng Vương -> Dưới Hùng Vương là Lạc hầu và Lạc tướng (đứng đầu bộ) -> dưới Lạc tướng là Bồ chính (cai quản xóm, làng)
– Nhân xét:
+ Thể chế: chế độ chuyên chế cổ đại.
+ Đặc điểm: đơn giản, sơ khai, tính chuyên chế chưa rõ nét.
– So sánh:
+ Giống nhau: tổ chức bộ máy nhà nước đơn giản, sơ khai
+ Khác nhau: đứng đầu nước thời Âu Lạc là An Dương Vương.
– Nhà nước Văn Lang ra đời đánh dấu bước ngoặt trong sự phát triển của lich sử dân tộc vì:
+ Nước ta đã có một nhà nước
+ Một nhà nước có người đứng đầu để cai quản, lãnh đạo đất nước
+ Một đất nước có tổ chức bộ máy nhà nước rõ ràng.
1.
– Sản xuất nông nghiệp lúa nước ngày càng phát triển, đòi hỏi con người phải chuyên tâm lo việc cuốc cày, làm đất, gieo hạt, chăm bón…
– Số người làm nông nghiệp tăng lên, để có người làm việc ngoài đồng, phải có người ở nhà lo việc ăn uống.
=> Sự phân công lao động trở thành cần thiết.
+ Phụ nữ, ngoài việc nhà, thường tham gia sản xuất nông nghiệp và làm đồ gốm, dệt vải.
+ Nam giới, một phần làm nông nghiệp, đi săn bắt, đánh cá;
+ Một phần chuyên hơn, thì phụ trách việc chế tác công cụ, bao gồm cả việc đúc đồng, làm đồ trang sức, về sau được gọi chung là các nghề thủ công.
=> Địa vị của người đàn ông ngày càng quan trọng.
Do sự phát triển của thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước→→1 người không thể đảm nhiệm mọi việc→→hình thành sự phân công lao động.
+Phụ nữ:làm việc nhà,sản xuất nông nghiệp,làm đồ gốm,dệt vải.
+Nam giới:đánh bắt,làm công cụ lao động(nghề thủ công).
2.
– Để định cư lâu dài bên các con sông lớn (sông Hồng, sông Mã, sông Cả,…) gồm nhiều gia đình thuộc nhiều thị tộc khác nhau => con người cần phải cải tiến công cụ lao động.
– Nhờ sự phát triển của nghề làm đồ gốm, người Phùng Nguyên – Hoa Lộc đã phát minh ra thuật luyện kim (từ quặng, đồng => đồ đồng xuất hiện)
Việc phát minh ra thuật luyện kim có ý nghĩa quan trọng:– Tạo ra nguồn nguyên liệu mới khá cứng dùng để làm công cụ, vật dụng sản xuất, có thể thay thế đồ đá. – Đúc được nhiều loại hình công cụ, dụng cụ khác nhau. – Công cụ nhẹ, gọn hơn, sắc bén hơn, từ đó đạt năng suất lao động cao hơn nhiều so với công cụ đá.
3.
– Trong nông nghiệp: lưỡi cày đồng được cải tiến và dùng phổ biến hơn.
– Các nghề thủ công như: làm gốm, dệt, làm đồ trang sức, đóng thuyền,… đều tiến bộ.
– Dân số tăng. Sự phân biệt giữa tầng lớp thống trị và nhân dân cũng sâu sắc hơn.
4.Người nguyên thủy lại chôn theo người chết những công cụ lao động vì: họ quan niệm rằng người chết không phải đã chết hẳn mà họ sang thế giới bên kia, do đó họ vẫn phải lao động làm ăn sinh sống nên cần có công cụ lao động.
5.
– Ở: phổ biến là nhà sàn mái cong hình thuyền hay mái tròn hình mui thuyền, làm bằng gỗ, tre, nứa, lá, có cầu thang tre (hay gỗ) để lên xuống.
– Làng, chạ thường gồm vài chục gia đình, sống quây quần ở ven đồi hoặc ở vùng đất cao ven sông, ven biển, ở một vài làng, chạ, người ta đã biết dùng tre rào quanh làng để ngăn thú dữ.
– Đi lại: chủ yếu bằng thuyền.
– Ăn: thức ăn chính hằng ngày là cơm nếp, cơm tẻ, rau, cà, thịt, cá. Trong bữa ăn, người ta đã biết dùng mâm, bát, muôi. Họ còn biết làm muối, mắm cá và dùng gừng làm gia vị.
– Mặc: Ngày thường, nam thì đóng khố, mình trần, đi chân đất; còn nữ thì mặc váy, áo xẻ giữa, có yếm che ngực. Mái tóc có nhiều kiểu: hoặc cắt ngắn bó xõa, hoặc búi tó, hoặc tết đuôi sam thả sau lưng. Ngày lễ, họ thích đeo các đồ trang sức như vòng tay, hạt chuỗi, khuyên tai. Phụ nữ mặc váy xòe kết bằng lông chim, đội mũ cắm lông chim hay bông lau.
Xã hội thời Văn Lang đã chia thành nhiều tầng lớp khác nhau : những người quyền quý, dân tự do, nô tì. Tuy vậy, sự phân biệt giữa các tầng lớp này còn chưa sâu sắc.Sau những ngày lao động mệt nhọc, người dân Văn Lang thường tổ chức lễ hội, vui chơi. Một số hình ảnh về lễ hội đã được ghi lại trên mặt trống đồng. Trai, gái ăn mặc đẹp, nhảy múa, hát ca trong tiếng trống, tiếng khèn, tiếng chiêng náo nức, rộn ràng. Họ còn tổ chức đua thuyền, giã gạo. Trong ngày hội, thường vang lên tiếng trống đồng để thể hiện điều mong muốn được “mưa thuận, gió hòa”, mùa màng tươi tốt, sinh đẻ nhiều, làm ăn yên ổn.Về tín ngưỡng, người Lạc Việt thờ cúng các lực lượng tự nhiên như núi, sông, Mặt Trời, Mặt Trăng, đất, nước. Người chết được chôn cất trong thạp, bình, trong mộ thuyền, mộ cây kèm theo những công cụ và đồ trang sức quý giá.Người thời Văn Lang đã có khiếu thẩm mĩ khá cao.Đời sống vật chất và tinh thần đặc sắc nói trên đã hòa quyện nhau lại trong con người Lạc Việt đương thời, tạo nên tình cảm cộng đồng sâu sắc.