Câu 1 trình bày đặc điểm của một số đại diện của giun đốt: giun đỏ, rươi
Câu 2 Trình bày cấu tạo của trai cơ thể trai, dinh dưỡng, sinh sản của trai sông
Câu 3 Nêu vai trò của thân mềm
ở các chợ địa phương em có Loài thân mềm nào được bán làm thực phẩm em loài nào có giá trị xuất khẩu
Câu 4Tại sao động vật ngành thân mềm có nhiều tập tính hơn các loài mà em đã được học
Mình ở Hải Phòng nha giúp mik ,mik sẽ cho 5 sao nha
Câu 1:
Trùn quế có kích thước tương đối nhỏ, dài khoảng 10-15 cm, thân hơi dẹt, bề ngang của con trưởng thành có thể đạt 0,1 – 0,2 cm, có màu từ đỏ đến màu mận chín tuỳ theo tuổi, màu nhạt dần về phía bụng, hai đầu hơi nhọn. Cơ thể trùn có hình thon dài, nối với nhau bằng nhiều đốt, trên mỗi đốt có một vành tơ. Trùn quế hô hấp qua da, chúng có khả năng hấp thu O2 và thải CO2 trong môi trường nước, điều này giúp cho chúng có khả năng sống trong nước nhiều ngày, thậm chí trong nhiều tháng.
Lưu ý: Giun đỏ còn có tên gọi là trùn quế
Thùy trước miệng của họ Rươi mang một cặp các xúc tu được phân biệt thành hai khối, khối ở đầu gần lớn hơn khối ở đầu xa. Các chi bên chủ yếu là chẻ đôi (chỉ có hai cặp đầu tiên là không chẻ). Phần quanh miệng hợp nhất với phần đốt đầu tiên của cơ thể, thông thường với 2 cặp lông gai xúc tu. Đốt thứ nhất của cơ thể với 1-2 cặp lông gai xúc tu không có các chất kitin dạng hình kim. Các tơ cứng phức hợp tồn tại (ít khi suy giảm). Các nhánh mặt lưng của các chi bên là khác biệt, thông thường với các thùy bẹt hơn, Các nhánh mặt bụng hợp thành các dạng hình liềm và/hoặc dạng hình gai (ít khi thiếu các nhánh mặt bụng). Chúng có 2 râu thuộc thùy trước miệng (không có ở chi Micronereis). Hầu (họng) khi lộn ra ngoài, thấy rõ gồm hai phần, với một cặp hàm khỏe trên phần ngoại biên và thường có các răng nón trên một hoặc nhiều khu vực của cả hai phần.
Phần lớn các chi không có các mang (nếu có thì chúng thường phân nhánh và xuất hiện trên các đốt giữa-trước của cơ thể). Cơ thể ấu trùng bao gồm 4 đốt.
Câu 2:
–Vỏ trai: Gồm 2 mảnh gắn với nhau nhờ bản lề ở phía lưng. Dây chằng ở bản lề có tính đàn hồi cùng với 2 cơ khép vỏ (bám chắc vào mặt trong của vỏ) điều chỉnh động tác đóng, mở vỏ
=> Giúp khép chặt vỏ khi bị kẻ thù tấn công
–Vỏ trai có lớp sừng bọc ngoài, lớp đá vôi ở giữa (rất dày và cứng chắc) và lớp xà cừ óng ánh ở trong cùng => Bảo vệ thân trai khi bị tấn công
– Lối sống của trai sông và hầu hết sò, ngao, điệp… nói chung là vùi lấp dưới tầng đáy bùn (chúng thuộc nhóm sinh vật đáy), di chuyển chậm chạp và dinh dưỡng thụ động.
Cấu tạo và hoạt động của chúng thích nghi rất cao với lối sống này :
– Về cấu tạo:
+ Vỏ gồm 2 mảnh nối với nhau nhờ bản lề, có cơ khép vỏ phát triển làm vỏ đóng lại khi cần tự vệ.
+ Khoang áo phát triển là nơi có mang thở và đồng thời là môi trường trao đổi chất dinh dưỡng và chất khí. Do vậy:
Phần đầu tiêu giảm, kéo theo tiêu giảm cả mắt và các giác quan khác. Chỉ có tấm miệng duy trì, trên có lông luôn rung động để tạo ra dòng nước hút vào và thải ra. Cơ chân kém phát triển.
Câu 3
Có lợi :
– làm thực phẩm cho con người : ngao, hến, mực, ốc, sò, trai,…
– làm thức ăn cho động vật khác : ốc sên, hến, mực, trai,…
– làm đồ trang sức : ốc gai, sò, ngọc trai, ốc tai,…
– làm vật trang trí : xà cừ, trai, sò, ốc tù và,…
– làm sạch môi trường nước : trai, vẹm, hàu, sò, ngao, hến,…
– có giá trị xuất khẩu : mực, nghêu, sò huyết, ngao, sò,…
– có giá trị về mặt địa chất : ốc, sò, ngao,…
Có hại :
– có hại cho cây trồng : ốc bươu, ốc sên,…
– làm vật chủ trung gian truyền bệnh giun sán : ốc mút, ốc ao,…
Câu 4:
Ngành Thân mềm có nhiều chủng loại rất đa dạng, phong phú và là nhóm động vật biển lớn nhất chiếm khoảng 23% tổng số các sinh vật biển đã được đặt tên. Trong các khu vực nhiệt đới, bao gồm Việt Nam, ngành này có hơn 90 nghìn loài hiện hữu, trong đó có các loài như trai, sò, ốc, hến, ngao, mực, bạch tuộc. Chúng phân bố ở các môi trường như biển, sông, suối, ao, hồ và nước lợ. Một số sống trên cạn. Một số nhỏ chuyển qua lối sống chui rúc, đục ruỗng các vỏ gỗ của tàu thuyền như con hà. Có độ đa dạng cao, không chỉ về kích thước mà còn về cấu trúc giải phẫu học, bên cạnh sự đa dạng về ứng xử và môi trường sống. Ngành này được chia thành 9 hoặc 10 lớp, trong đó 2 lớp tuyệt chủng hoàn toàn. Cephalopoda như mực, cuttlefish và bạch tuộc là các nhóm có thần kinh cao nhất trong tất cả các loài động vật không xương sống, và mực khổng lồ hay mực ống khổng lồ là những loài động vật không xương sống lớn nhất đã được biết đến. Năm 1877, người ta đã phát hiện xác của loài này dạt vào ven bờ Đại Tây Dương, dài 18m (kể cả tua miệng), cả cơ thể nặng khoảng hơn một tấn. Động vật chân bụng (ốc sên và ốc) là nhóm có số loài nhiều nhất đã được phân loại, chúng chiếm khoảng 80% trong tổng số loài động vật thân mềm. Nghiên cứu khoa học về động vật thân mềm được gọi là nhuyễn thể học (Malacology).
Nên động vật ngành thân mềm có nhiều tập tính hơn các loài mà em đã được học