câu1:nêu nội dung quyền được bảo vệ , chăm sóc, giáo dục của trẻ em việt nam?bổn phận và trách nhiệm của em khi được hưởng các quyền trên?
câu2:nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo? Trách nhiệm của em trong việc bảo vệ di sản văn hóa ?
câu3: phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan? cho vd
câu4: nêu bản chất nhà nước ta?giải thích vì sao nhà nước ta lại mang bản chất đó
giúp mk vs nha!mk đg cần gấp
học tốt ạ!
Quyền được khai sinh và có quốc tịch.
Quyền được sống.
Quyền tự do ngôn luận.
Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng.
Trong gia đình:
Yêu thương đùm bọc, chăm sóc giúp đỡ anh chị em
* Ở nhà trường:
Yêu trường, yêu lớp, có yêu quê hương đất nước, có ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tôn trọng, lễ phép với thầy cô, đoàn kết với bạn bè.
Chăm chỉ học tập và rèn luyện đạo đức.
* Đối với xã hội :
Sống có đạo đức, tôn trọng pháp luật.
Coi trọng và giữ gìn bản sắc, văn hoá dân tộc, yêu quê hương, đất nước.
câu 2
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Người dân Việt Nam có truyền thống sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn liền với đời sống kinh tế và tâm linh của mình.
câu 3
1. Sự giống nhau và khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng1.1. Sự giống nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡngMột là, những người có tôn giáo (Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành,…) và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…) đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không hề được trông thấy Chúa Trời, đức Phật hay cụ kỵ tổ tiên hiện hình ra bằng xương bằng thịt và cũng không được nghe bằng chính giọng nói của các đấng linh thiêng đó.Sự giống nhau thứ hai giữa tôn giáo và tín ngưỡng là những tín điều của tôn giáo và tín ngưỡng đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá thể với nhau, giữa cá thể với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.1.2. Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡngMột là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó. Giáo chủ là người sáng lập ra tôn giáo ấy (Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Mô ha mét sáng lập ra đạo Hồi,…); giáo lý là những lời dạy của đức giáo chủ đối với tín đồ; giáo luật là những điều luật do giáo hội soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó[1].Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có một tôn giáo thì một người dân có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, người đàn ông vừa có tín ngưỡng thờ cụ kỵ tổ tiên, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng, ông ta còn ra đình lễ Thánh. Cũng tương tự như vậy, một người đàn bà vừa có tín ngưỡng thờ ông bà cha mẹ, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng còn ra miếu, ra chùa làm lễ Mẫu,…Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ thì các loại hình tín ngưỡng chỉ có một số bài văn tế (đối với tín ngưỡng thờ thành hoàng), bài khấn (đối với tín ngưỡng thờ tổ tiên và thờ Mẫu). Hệ thống kinh điển của tôn giáo là những bộ kinh, luật, luận rất đồ sộ của Phật giáo; là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo Công giáo; là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo,… Còn các cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu văn mà những người cung văn hát trong các miếu thờ Mẫu không phải là kinh điển.Hội Dòng Đức Mẹ Hiệp Nhất Bắc Ninh 14 nữ tu tuyên khấn trọn đời – Báo CGBốn là, nếu các tôn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp và theo nghề suốt đời, thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm việc này một cách chuyên nghiệp cả. Các tăng sĩ Phật giáo và các giáo sĩ đạo Công giáo đề là những người làm việc chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời (có thể có một vài ngoại lệ, nhưng số này chiếm tỷ lệ rất ít). Còn trước đây, những ông Đám của làng có 1 năm ra đình làm việc thờ Thánh, sau đó lại trở về nhà làm những công việc khác, và như vậy không phải là người làm việc thờ Thánh chuyên nghiệp.2. Sự giống nhau và khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan2.1. Sự giống nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoanGiống như sự giống nhau giữa tôn giáo với tín ngưỡng dân gian, tức là đều tin vào những điều mà mắt mình không trông rõ, tai mình không nghe thấy thân hình và giọng nói của đấng thiêng liêng và của đối tượng thờ cúng; hạ là, những tín điều của tín ngững dân gian và mê tín dị đoan đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với cộng đồng, điều chỉnh hành vi ứng xử trong gia đình trên cơ sở những tín điều mà người ta tin theo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc và những đối tượng tôn thờ trong các loại hình tín ngưỡng và trong mê tín dị đoan.2.2.Sự khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoanMột là, xét về mục đích, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có mục đích là thể hiện nhu cầu của đời sống tinh thần, đời sống tâm linh thì người hoạt động mê tín dị đoan lấy mục đích kiếm tiền là chính. Người hoạt động trong lĩnh vực này chỉ làm việc với khách hàng khi có tiền.Hai là, nếu trong lĩnh vực sinh hoạt tín ngưỡng không có ai làm việc chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, thì những người hoạt động mê tín dị đoan hầu hết là hoạt động bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. Nhiều người sống và gây dựng cơ nghiệp bằng nghề này.Ba là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng (đình, từ đường, miếu,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nào đó của những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề hoặc hành nghề tại tư gia.Bốn là, nếu những người có sinh hoạt tín ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ tại cơ sở thờ tự (ngày mùng Một, ngày Rằm âm lịch hàng tháng ra đình làm lễ Thánh; hàng năm đến ngày giỗ bố mẹ ông bà, phải làm giỗ,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan hoạt động không định kỳ, vì người đi xem bói chỉ gặp thầy bói khi trong nhà có việc bất thường xảy ra (mất của, chết đuối, ốm đau, hỏa hoạn,…), còn bình thường, có lẽ họ chẳng gặp thầy bói làm gì.Năm là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng được pháp luật bảo vệ, được xã hội thừa nhận thì hoạt động mê tín dị đoan bị xã hội lên án, không đồng tình.3. Mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoanNhư trên đã trình bày, giữa tôn giáo và tín ngưỡng; giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan có một số điểm khác biệt nhưng cũng có một số điểm tương đồng. Chính từ những điểm tương đồng này khiến chúng có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó thể hiện ở các phương diện sau:Trước hết, các nhà truyền giáo của các tôn giáo phải dựa vào tín ngưỡng bản địa để tuyên truyền và thể hiện đức tin tôn giáo của mình. Về phía cộng đồng có đời sống tín ngưỡng cũng học hỏi được một số điểm phù hợp của một số tôn giáo về nghi thức hành lễ, về phẩm phục, về cách bài trí nơi thờ tự,…Hai là, đối với hoạt động mê tín dị đoan, do không có cơ sở thờ tự chính thức, những người hành nghề đã mượn cơ sở thờ tự của tôn giáo (chủ yếu là của Phật giáo) và cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề. Cũng do hành nghề tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và tín ngưỡng dân gian mà trong một mức độ nào đó, “độ tin cậy” của họ đối với khách hàng có thể được nâng caoBa là, một số tôn giáo và tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Thành hoàng) dựa vào sự thiếu hiểu biết của người dân đã sử dụng một số thủ thuật của nghề mê tín dị đoan để tăng thêm sự huyền bí của một số lễ thức ngoài tôn giáo và tín ngưỡng (chẳng hạn, lễ thức xin âm dương, rút thẻ,…) mà tôn giáo, tín ngưỡng nào đó vay mượn. Mặt khác, người hành nghề mê tín dị đoan cũng học được ở các pháp sư Phật giáo một số thế tay bắt quyết để họ hành nghề trừ tà ma,…Bốn là, những người hành nghề mê tín dị đoan hoạt động tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và cơ sở thờ tự tín ngưỡng dân gian sẽ dễ dàng tiếp cận được với số đông khách hàng, và như vậy, nguồn lợi mà họ thu được sẽ nhiều hơn.Tóm lại, tôn giáo, tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan có những điểm giống và khác nhau và chúng có mối quan hệ qua lại với nhau. Mối quan hệ này được tạo ra bởi những người trực tiếp hoạt động trên những lĩnh vực đó. Phân biệt được sự giống nhau, khác nhau và mối quan hệ giữa chúng sẽ giúp chúng ta có cơ sở để góp phần phát huy mặt tích cực của tôn giáo, tín ngưỡng và khắc phục mặt tiêu cực của của chúng.[1] Căn cứ theo tiêu chí là một tôn giáo phải có đầy đủ 4 yếu tố này, thì theo chúng tôi, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam không phải là một tôn giáo (đạo) như có học giả đã chủ trương mà nó chỉ là một loại tín ngưỡng của người Việt. Cũng tương tự như vậy, tín ngường thờ cụ kỵ tổ tiên ở nước ta cũng chỉ là một loại hình tín ngưỡng chứ không phải là “Đạo Ông bà” như có học giả người Pháp đã xác định vào thời kỳ trước năm 1945.
câu 4
–Thứ nhất, bản chất của Đảng Cộng sảnViệt Nam xuất phát từ tiền đề ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa ba yếu tố: chủ nghĩa Mác Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng tập hợp vào hàng ngũ của mình những người “tin theo chủ nghĩa cộng sản,chương trình của Đảng và quốc tế cộng sản,hăng hái đáu tranh và dám hi sinh phục tùng mệnh lệnh đảng và đóng kinh phí,chịu phấn đấu trong một bộ phận của đảng”. Hồ Chí Minh khẳng định rõ mục đích của Đảng là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Vì thế Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng vừa là đảng của giai cấp công nhân vừa là Đảng của cả dân tộc Việt Nam.
-Thứ hai, về bản chất giai cấp công nhân của Đảng:
+ Trước hết đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình.
+ Bản chất giai cấp công nhân của Đảng còn thể hiên trong mục tiêu của Đảng: Biểu hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng trước hết rõ nhất cụ thể nhất là Đảng ta thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có giai cấp công nhân mới có thể “đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”.
Trong “Điều lệ tóm tắt” của Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Hội nghị hợp nhất 3 Đảng năm 1930 đã nêu: Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng.
Đại hội II của Đảng năm 1951 đã khẳng định “Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân của Đảng tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam”. Như vậy khi nói Đảng vừa là Đảng của giai cấp công nhân vừa là Đảng của cả dân tộc không có nghĩa là xóa nhòa đi bản chất giai cấp của Đảng, nếu hiểu như vậy thì không đúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặc dù Đảng có nhiều tên gọi khác nhau qua từng thời kì thì bản chất của Đảng vẫn là duy nhất theo tư tưởng của Người: “Đảng Cộng sản Việt Nam luôn mang bản chất của giai cấp công nhân.”
>> Xem thêm: Mẫu đơn xin vào Đảng, giấy giới thiệu Đảng viên mới nhất 2020
Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân còn được thể hiện ở nguyên tắc tổ chức, xây dựng và hoạt động của Đảng: Về bản chất, Đảng Lao động Việt Nam mang bản chất công nhân, là đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp công nhân, vì Đảng Lao động Việt Nam có đủ những tính chất căn bản của một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin làm nền tảng tư tưởng; Đảng lấy dân chủ tập trung làm nguyên tắc tổ chức; Đảng lấy phê bình và tự phê bình làm quy luật phát triển.
-Thứ ba, về tính nhân dân, tính dân tộc của Đảng:
Quan niệm đảng không những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của cả toàn dân tộc có ý nghĩa to lớn với cách mạng Việt Nam. Đảng không chỉ đấu tranh vì lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đấu tranh cho quyền lợi của tập thể, của cả dân tộc. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc nên nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình. Trong thành phần của mình, Đảng không chỉ kết nạp giai cấp công nhân mà còn kết nạp cả những thành viên ưu tú thuộc giai cấp nông dân trí thức và các thành phần khác thông qua quá trình giác ngộ, rèn luyện và tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng. Đảng cũng đã khẳng định rằng, để đảm bảo và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, Đảng luôn luôn gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tọc trong tất cả các thời kì của cách mạng. Trong quá trình rèn luyện Đảng, Hồ Chí Minh luôn chú trọng tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Như vậy mặc dù đảng ta mang bản chất của giai cấp công nhân xong đảng ta nguyện phấn đấu suốt đời cho lợi ích không phải chỉ riêng giai cấp công nhân mà còn là toàn thể nhân dân lao động và cả dân tộc.