“Chỉ với 4 câu cuối bài đoàn thuyền đánh cá , Hữu Cận đã khắc hoạ bức tranh thật rực rỡ và tráng lệ cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong buổi bình minh” coi câu trên là câu chủ đề , em hãy viết những câu tiếp theo để hoàn chỉnh đoạn văn khoảng 10 câu theo cách lập luận Tổng Phân Hợp( sử dụng 1 câu ghép và 1 lời dẫn trực tiếp)
“Chỉ với 4 câu cuối bài đoàn thuyền đánh cá , Hữu Cận đã khắc hoạ bức tranh thật rực rỡ và tráng lệ cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong buổi bình mi
By Kinsley
khổ thơ :
(chép khổ cuối)
đc trích trong bài thơ”tên bài thơ” của huy cận. khổ thơ đặc sắc bởi tác giả khéo léo sử dụng bptt so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ. và ngay ở câu thơ đầu ta đã bắt gặp bptt ẩn dụ ”câu hát căng buồm”.
thực tế con thuyền ra khơi ngược chiều gió, lo lắng bởi biển đêm bí hiểm. con người chạy đua cùng vũ trụ đc thể hiện qua từ”đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” để đưa những mẻ tôm cá về bờ. khép lại bài thơ là h/ả ẩn dụ độc đáo ”mắt cá huy hoàng” _(giải nghĩa từ”huy hoàng”)
Có rất nhiều tác giả viết về đề tài lao động, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận được người đọc yêu thích nhất bởi bài thơ phản ánh không khí lao động sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội khi hoà bình vừa lập lại. Bài thơ như một khúc tráng ca ca ngợi những con người lao động khoẻ khoắn và vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước. Tác giả ngợi ca tinh thần lao động hăng say của những người dân chài trên biển quê hương.
Huy Cận ( 1919 – 2005 ), tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở Đức Thọ – Hà Tĩnh. Ông là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Nếu như trước cách mạng, Huy Cận là một hồn thơ buồn với cảm hứng thiên nhiên vũ trụ thì thơ ông sau cách mạng tràn đầy niềm vui tươi và tình yêu cuộc sống. : Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Huy Cận được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận viết 1958, khi đất nước đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống mới. Không khí hào hứng, phấn chấn, tin tưởng bao trùm trong đời sống xã hội ở khắp nơi dấy lên phong trào phát triển sản xuất xây dựng đất nước. Chuyến thâm nhập thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh vào nửa cuối năm 1958 đã giúp nhà thơ Huy Cận thấy rõ và sống trong không khí lao động ấy, góp phần quan trọng mở ra một chặng đường mới trong thơ Huy Cận.
Loading…THÔNG TIN THAM KHẢOLàm 2 phút – hết mùi hôi nách không lo tái phátNavinAi sa búi trĩ, chảy máu cấp độ 3, 4 dùng thứ này ổn tới giàTrĩ Minh TâmCách giảm cân mạnh mẽ nhất (Mỡ bụng biến mất)Vinslim V3Sa búi trĩ dù đến cấp 4, dùng cách này cũng dứt ngay tai nhàSatuchin
Mạch cảm xúc của bài thơ: theo trình tự thời gian đoàn thuyền của ngư dân ra khơi đánh cá và trở về. Bài thơ được triển khai theo trình tự 1 chuyến ra khơi đánh cá, được chia làm ba phần. Hai khổ thơ đầu là hoàng hôn trên biển và cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi; bốn khổ thơ tiếp theo: Đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng; phần còn lạ của bài thơ là cảnh bình minh trên biển, đoàn thuyền đánh cá trở về.
Với bố cục như vậy, bài thơ đã tạo ra một khung cảnh không gian và thời gian rất đáng chú ý. Không gian rộng lớn bao la với mặt trời, biển, trăng, sao, mây, gió; thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ lúc hoàng hôn đến bình minh, cũng là thời gian của một chuyến ra biển rồi trở về của đoàn thuyền đánh cá.
Với sự cảm nhận tinh tế, quan sát tỉ mỉ, Huy Cận đã vẽ lại bức tranh hoàng hồn tuyệt đẹp trước khi đoàn thuyền đánh cá ra khơi:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hai câu đầu tiên tác giả miêu tả cảnh hoàng hôn trên biển. Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh: Mặt trời xuống biển như hòn lửa, tác giả đã khắc họa họa hình ảnh đẹp về mặt trời. Qua phép so sánh đó, người đọc dường như được chiêm ngưỡng một khung cảnh biển đẹp rực rỡ, bức tranh tráng lệ, kì vĩ. Đến câu thơ thứ hai, biện pháp nhân hóa được Huy cận sử dụng rất tài tình. Sóng được ví như một cá thể sinh động với hành động cài then, đêm như một ngôi nhà sập cửa xuống. Nhà thơ đã có sự liên tưởng rất độc đáo, then cửa ở đây là sóng và cánh cửa là màn đêm. Với biện pháp so sánh và nhân hoá: mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ, đỏ rực lên làm rực sáng cả một vùng biển, rồi lặn vào lòng đại dương. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm là cánh cửa, những đợt sóng lăn tăn là những chiếc then cài. Nhờ vào sự liên tưởng ta thấy vũ trụ vốn rộng lớn cũng trở nên gần gũi với con người. Cảnh biển vào đêm đẹp, vừa rộng lớn vừa gần gũi. Thiên nhiên, vũ trụ ở đây đang chìm vào bóng đêm, chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi, yên tĩnh.
Và khi mặt trời lặn, vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi, yên tĩnh thì đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Từ lại diễn tả công việc thường xuyên, đều đặn, nhịp nhàng của con thuyền. Đây là hoạt động là công việc hằng ngày, thường xuyên của những người dân biển. Nếu ở hai câu đầu thiên nhiên vũ trụ đã đi vào trạng thái nghỉ ngơi yên tĩnh thì đến hai câu sau cho chúng ta biết biết đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Giữa 4 câu thơ trong khổ 1 có sự đối lập giữa vũ trụ và con người: Vũ trụ nghỉ ngơi còn con người lao động. Câu thơ cuối khổ 1 đã phản ánh được khí thế của đoàn thuyền lúc ra khơi. Câu hát căng buồm là hình ảnh thơ mộng, khỏe khoắn và đầy lãng mạn, câu hát hòa cùng tiếng gió thổi căng buồm, đó là tiếng hát của người dân lao động. Tiếng hát diễn tả niềm vui, yêu đời, yêu lao động, làm chủ quê hương, làm chủ thiên nhiên đất nước. Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà thật từ sự gắn kết ba sự vật và hiện tượng: cánh buồm, gió khơi và câu hát của người đánh cá “câu hát căng buồm với gió khơi”. Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của người lao động như đã có một sức mạnh vật chất để cùng với ngọn gió làm căng buồm cho con thuyền lướt nhanh ra khơi. Con người ra khơi với khí thế mạnh mẽ, tươi vui, lạc quan, yêu lao động.
Bốn câu thơ tiếp theo nói rõ về câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người dân chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
Chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng hồn hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào, ngắn dài và vang xa: “cá bạc”, “đoàn thoi”, “dệt biển”, “luồng sáng”, “dệt lưới” vẫn những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về lao động.
Bốn khổ thơ tiếp nói về cảnh đánh cá vào một đêm trăng trên vịnh Hạ Long. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sông nước, trăng sao, trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ khỏe mạnh, trẻ trung và yêu đời.
Hạ Long là một thắng cảnh bậc nhất của đất nước ta. Hạ Long trong đêm trăng mang vẻ đẹp thần tiên. Huy Cận, với bút pháp lãng mạn tả cảnh đánh cá trên Hạ Long vào một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời.
Đoàn thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm phóng như bay trên mặt biển về ngư trường “dò bụng biển”, ngư dân khẩn trương lao vào công việc “dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Cuộc đánh cá thực sự là một trận đánh. Mỗi thủy thủ là một “chiến sĩ”. Con thuyền, mái chèo, lưới, ngư cụ khác đều trở thành vũ khí của họ. Chữ “lưới” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Nhịp thơ hối hả lôi cuốn:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Nhà thơ đã thành công với thủ pháp nghệ thuật phóng đại, liên tưởng mạnh bạo bất ngờ trong việc sáng tạo hình ảnh ngời lao động trước thiên nhiên vũ trụ. Cảm hứng lao động và cảm hứng thiên nhiên vũ trụ hoà hợp.Hình ảnh người lao động và công việc của họ được đặt trong không gian rộng lớn của biển trời trăng sao, con thuyền đánh cá nhỏ bé bỗng trở nên kì vĩ, khổng lồ hoà nhập với kích thớc rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ.
Qua 3 khổ đầu của bài thơ, nhà thơ đã tăng thêm kích thước tầm vóc, vị thế của con người. Đến khổ 4 là cảnh hoạt động của đoàn thuyền đánh cá giữa khung cảnh biển trời ban đêm:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Khổ thơ đã mở ra cho người đọc một khung cảnh thiên nhiên mĩ lệ, đầy màu sắc với những cá nhụ, cá chim cùng cá đé – Cá song lấp lánh đuốc đen hồng. Từ sự quan sát hiện thực tác giả đã tạo ra những hình ảnh liên tưởng, tưởng tượng:“ Cá nhụ…vàng choé”. Nhà thơ sử dụng các từ láy, tính từ giàu sức gợi tả thể hiện vẻ đẹp của cá trên biển đêm. Cảnh trên biển đêm quả thực là một khung cảnh thơ mộng, tuyệt đẹp. Người đọc dường như không nhận ra rằng con người đang đi đánh cá mà đang đi chiêm ngưỡng thiên nhiên ấy. Câu thơ cuối tiếp tục sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa độc đáo. Thiên nhiên đang hoà nhịp với người lao động, cảnh biển đêm đẹp lạ lùng- đó là một liên tưởng đẹp, sao trời như lùa vào làn nước thăm thẳm của Hạ Long và đêm cũng như một sinh vật có sự sống.
Khổ thơ tiếp theo miêu tả công việc lao động của người đánh cá:
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Những hình ảnh giản dị lần lượt hiện lên qua khổ thơ. Tiếng hát một lần nữa lại được tác giả nhắc lại, phải chăng đó chính là tiếng hò dô của con người khi kéo được mẻ cá nặng. Tiếng hát, cùng với tiếng nhịp thuyền gõ vào mạn thuyền để gọi cá, vừa có lời bài hát, vừa có tiết tấu. Một hình ảnh đẹp hiện ra trước mắt ta như một đoàn hợp xướng chuyên nghiệp trên sân sấu. Đó là những hình ảnh rất đẹp, rất giản dị mà lại rất gần gũi. Tác giả so sánh biển như lòng mẹ, lòng mẹ thì có bao giờ lại độc với con cái của mình, người mẹ bao giờ cũng mang đến cho người con những gì là của con nhất, mang đến cho người con nững gì mà người con cần nhất. Vì mẹ là mẹ, mẹ là người phụ nữ hy sinh cho con rất nhiều. Mẹ đã nuôi lớn ta từ khi ta còn trong lòng mẹ, cũng giống như biển cả cho con người lao động những mẻ cá để nuôi lớn con người, rồi cứ thế hệ này tới thế hệ khác.
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Trong ánh nắng ban mai rực rỡ, hiện lên hàng nghìn, hàng vạn con cá lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng xếp ăm ắp trên những con thuyền. Công việc đánh cá được miêu tả lại thật đẹp. Người dân chài làm công việc đó một cách nhanh nhẹn, thuần thục để cho kịp trời sáng. Những ngư dân ở đây trở nên điêu luyện, thuần thục như những anh hùng trên biển cả. Công việc đánh bắt cá vì vậy mà trở nên đẹp đẽ, thiêng liêng. Chúng ta không nhìn thấy sự mệt nhọc của người dân chài, mà chỉ nhìn thấy sự khỏe khoắn, say mê trong công việc lao động của họ.
Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Của Huy Cận | Văn Mẫu Lớp 9
Khi lưới đã đẹp, buồm đã lên, nắng đã hồng cũng là lúc mà đoàn thuyền đánh cá trở về:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
“Câu hát căng buồm” – lặp lại gần như toàn bộ câu thơ ở khổ thơ 1, thể hiện niềm vui thắng lợi sau một chuyến ra khơi may mắn, tôm cá đầy khoang của người dân chài. Sau một đêm lao động hăng say trên biển, đoàn thuyền trở về không hề mỏi mệt, vẫn đầy khí thế chạy đua cùng mặt trời. Người dân chài vẫn đầy hào hứng, chạy đua tốc độ với thời gian.
Hai câu thơ cuối là sự tưởng tượng đầy sáng tạo của Huy Cận. Thể hiện sự tuần hoàn của thời gian: ánh sáng nhô lên, mặt trời ló mặt, kết thúc một đêm. Mở đầu bài thơ là hình ảnh mặt trời xuống biển và kết thúc thúc là hình ảnh mặt trời đội biển nhô lên giữa sóng nước. Thiên nhiên đã vận động theo một vòng quay của mặt trời và con người đã hoàn thành trách nhiệm của mình trong lao động. Không gì vui bằng lao động có hiệu quả.
Đoàn thuyền đánh cá là sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Bài thơ là khúc hát ca ngợi thiên nhiên giàu đẹp, ca ngợi con người lao động mới. Âm hưởng của khúc ca ấy vang lên, ngân dài trong suốt cả bài thơ, từ khi con thuyền của những người đánh cá rời bờ ra khơi cho đến khi trở về.