Chứng minh rằng tội phạm chiến tranh thế giới thứ hai là đức Italia nhật
0 bình luận về “Chứng minh rằng tội phạm chiến tranh thế giới thứ hai là đức Italia nhật”
Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939 – 1945)
Chiến tranh thế giới thứ hai đã diễn ra trên nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu (mặt trận phía Tây); mặt trận Xô – Đức (mặt trận phía Đông); mặt trận Bắc Phi; mặt trận châu Á – Thái Bình Dương và mặt trận trong lòng địch của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng, trong đó, mặt trận chủ yếu, quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Chiến tranh thế giới thứ hai là mặt trận Xô – Đức.
Hồng quân Xô Viết tổ chức phản công phát xít Đức ở Mặt trận phía Tây Mát-xcơ-va
Từ 1939 đến 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai đại thể đã trải qua 5 giai đoạn:
1. Giai đoạn thứ nhất: từ 1-9-1939 (ngày Đức tấn công Ba Lan, mở đầu đại chiến) đến 22-6-1941 (ngày phát xít Đức tấn công Liền Xô).
2. Giai đoạn thứ hai: từ 22-6-1941 đến 19-11-1942 (ngày mở đầu cuộc phản công ở Xtalingrat).
3. Giai đoạn thứ ba: từ 19-11-1942 đến 24-12-1943 (ngày mở đầu cuộc tổng phản công của Hồng quân Liên Xô trên khắp các mặt trận).
4. Giai đoạn thứ tư: từ 24-12-1943 đến 9-5-1945 (ngày phát xít Đức đầu hàng, chiến tranh kết thúc ở châu Âu).
5. Giai đoạn thứ năm:từ 9-5-1945 đến 14-8-1945 (ngày Phát xít Nhật đầu hàng, Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt).
I. Giai đoạn thứ nhất (1-9-1939 đến 22-6-1941):
l. Đức tấn công Ba Lan và bước khởi đầu của chiến tranh thế giới (9-1939 đến 4 – 1940).
Ngày 1-9-1939, không tuyên chiến, quân Đức tràn vào Ba Lan. Để tấn công Ba Lan, Đức đã có sự chuẩn bị từ lâu và đưa vào Ba Lan một lực lượng to lớn; 70 sư đoàn (trong đó có 7 sư đoàn xe tăng và 6 sư đoàn cơ giới, với hơn 3000 máy bay). Trong khi đó, Ba Lan thiếu chuẩn bị về tinh thần và vật chất. Một bộ phận lớn quân đội Ba Lan lại tập trung ở biên giới phía Đông để chống Liên Xô, trong khi đó Đức có ưu thế tuyệt đối về quân số và trang bị. Chúng lại lợi dụng yếu tố bất ngờ và thực hiện chiến thuật ”đánh chớp nhoáng”, dùng xe tăng và máy bay thọc sâu, bao vây, khiến cho Ba Lan không chống đỡ nổi.
Từ ngày 12 đến 16-9, vòng vây của Đức xiết chặt chung quanh Vacxava và quân Đức tiếp tục tiến về phía Đông chiếm Bret-Litôp, Lubơlin và Lvốp. Bọn phản động cầm quyền Ba Lan không đủ sức chỉ đạo về quốc phòng. Sau những đòn thất bại đầu tiên, chúng đều hèn nhát bỏ trốn sang Rumani. Nhưng nhân dân Ba Lan không chịu hạ khí giới. Những đảng viên cộng sản từ trong tù hay trong bí mật ra lãnh đạo cuộc chiến đấu bảo vệ Vacxava. Họ chiến đấu rất anh dũng, đập tan1 sư đoàn thiết giáp Đức tiến vào thành phố, nhưng không thể nào cứu vãn nổi. Vacxava tan hoang trong khói lửa cuối cùng đã bị thất thủ. Nước Ba Lan bị Đức thôn tính. Trong khi đó, một cuộc “chiến tranh kì quặc” đã diễn ra ở phía Tây nước Đức.
Liên quân Pháp, Anh dàn trận ở Bắc Pháp dọc theo biên giới Đức, nhưng không tấn công Đức và cũng không có một hành động quân sự nào để đỡ đòn cho Ba Lan. Hiện tượng ”tuyên” mà không ”chiến” (được các nhà báo Mĩ gọi là ”cuộc chiến tranh kì quặc”, người Pháp gọi là cuộc chiến tranh “buồn cười”, còn người Đức gọi là chiến tranh ”ngồi”) kéo dài suốt trong 8 tháng (từ 9-1939 đến 4-1940). Trong suốt thời gian này, quân đội hai bên hầu như chỉ ngồi trong chiến lũy nhìn sang nhau, thỉnh thoảng quân Pháp mở những cuộc tiến công nhỏ có tính chất “tượng trưng” rồi lại trở về vị trí cũ. Sở dĩ có hiện tượng này là do giới cầm quyền Anh, Pháp vẫn còn ảo tưởng về một sự thỏa hiệp với Hítle. Đồng thời cũng do Bộ tổng tư lệnh liên quân, đứng đầu là tướng Pháp Gamơlanh, đã quyết định áp dụng chiến thuật phòng ngự, mong dựa vào phòng tuyến Maginô kiên cố để đánh bại quân địch.
Mùa xuân năm 1940, Quốc hội Pháp và Anh đã nhận ra sai lầm trong đường lối mềm yếu này. Họ quyết định đưa ra những nhân vật cứng rắn lên cầm đầu chính phủ: Râynô lập chính phủ mới ở Pháp (tháng 3) và Sơcsin trở thành Thủ tướng Anh (tháng 5), nhưng đó là sự thay đổi quá muộn.
Cùng thời gian này, vào ngày 17-9-1939, theo sự thỏa thuận với Đức (qua ”Biên bản mật” ngày 24-9), quân đội Liên Xô tiến vào miền Đông Ba Lan và tiến hành cuộc chiến tranh ở biên giới phía Tây để thu hồi lãnh thổ của đế quốc Nga bị mất vào những năm 1918 – 1920. Miền Đông Ba Lan vốn là một phần lãnh thổ của Tây Ucraina và Tây Bêlarút bị trao cho Ba Lan năm 1920, nay sáp nhập trở lại với hai nước Cộng hòa Xô viết này trong Liên bang Xô viết (11-1939).
Ngày 18-9, Liên Xô lên án ba nước Ban Tích là không giữ vai trò trung lập. Dưới sức ép về quân sự, lãnh đạo ba nước Ban Tích phải lần lượt đến Mátxcơva và kí những hiệp ước không xâm lược với Liên Xô: Extônia, ngày 28-9, Látvia ngày 5-10, Litva ngày 10 -10. Đó là những hiệp ước tương trợ Extônia và Litva nhượng cho Liên Xô những căn cứ hải quân và không quân. Cả ba nước chấp nhận cho Liên Xô quyền đóng quân trên đất của họ. Thành phố Vilna và khu vực Vilna được trả lại cho Litva (27-10). Tháng 6-1940, quân Đội Liên Xô tiến vào ba nước Ban Tích, gây áp lực lật đổ các chính phủ tư sản ở đây. Các chính phủ mới được thành lập dưới sự kiểm soát của Dekanôzôp ở Litva, của Vichinsk ở Latvia và của Jđanôp ở Extônia. Ngày 14-7, bầu cử được tiến hành. Các Quốc hội mới kêu gọi sáp nhập các nước Ban Tích vào Liên Xô. Tháng 8-1940, Xô viết tối cao Liên Xô chấp nhận ba nước Ban Tích vào thành phần của Liên bang Xô viết.
Ngày 28-11, Liên Xô hủy bỏ hiệp ước không xâm lược năm 1932 và ngày hôm sau Liên Xô cắt quan hệ ngoại giao với Phần Lan. Chiến tranh Xô – Phần bùng nổ và diễn ra ác liệt trong suốt mùa đông băng giá (11-1939 đến 3-1940). Kết quả theo hiệp ước Matxcơva ngày 12-3-1940, Phần Lan phải nhường vĩnh viễn eo đất Carêli để Liên Xô thành lâp nước Cộng hòa Xô viết Carêli của mình và biên giới Phần Lan – Liên Xô được lùi xa Lêningrát thêm 150 km nữa. Ngoài ra, Phần Lan còn phải cho Liên Xô thu cảng Hănggô trong 30 năm với số tiền 8 triệu mác Phần Lan.
Betxarabia và Bắc Bucôvina là vùng tranh chấp lâu dài giữa Nga với Rumani mà Rumani chiếm được năm 1918. Xtalin gửi tối hậu thư cho Rumani đòi:
– Vùng Betxarabia mà Nga chưa bao giờ chịu mất, phải trả về cho Nga.
– Sáp nhập vùng Bắc Bucôvina mà dân cư ở đó về mặt lịch sử và về mặt ngôn ngữ gắn bó với nước Cộng hòa Xô viết Ucraina.
Trước tình hình đó, chính phủ Rumani kêu gọi sự giúp đỡ của Đức và Italia, nhưng hai nước từ chối và Rumani đành nhượng bộ. Thế là Betxarabia và Bắc Bucôvina trở thành một bộ phận thuộc nước Cộng hòa Xô viết Mônđavia của Liên Xô (8-1940).
Tính chung, Liên Xô đã lập thêm 5 nước Cộng hòa Xô viết Liên bang, mở rộng lãnh thổ 2 nước Cộng hòa Xô viết, đưa tổng số nước Cộng hòa của Liên Xô lên tới 16. Số dân mới gia nhập Liên Xô là 23 triệu người (13 triệu ở Ba Lan cũ, 10 triệu ở Rumani và trong các nước Ban Tích) Biên giới phía tây của Liên Xô được đẩy lùi thêm từ 200 – 300km.
2. Đức đánh chiếm các nước Bắc Âu và Tây Âu
Cuộc ”Chiến tranh kì quặc” đã giúp cho nước Đức phát xít mạnh lên. Lợi dụng thời gian hưu chiến suốt mùa đông 1939 – 1940, Đức phát triển bộ binh lên tới 136 sư đoàn, xe tăng – 10 sư đoàn, máy bay – 4 vạn chiếc. Thực lực của Đức khi đó tăng lên chừng gấp đôi thời kì trước khi đánh Ba Lan. Trong khi đó thì các chính phủ Anh, Pháp do theo đuổi những âm mưu chống Liên Xô đã không nghĩ đến củng cố sự phòng của đất nước. Trong những tháng ấy, sản xuất vật liệu chiến tranh của Anh và Pháp không tăng; một phần vũ khí và quân trang làm ra lại gửi sang Phần Lan.
Lập trường mù quáng chống Liên Xô làm cho giới thống trị các nước Anh và Pháp trở nên thiển cận. Mặc dầu nguy cơ tấn công của Đức vào các nước phương Tây ngày càng rõ và họ biết điều đó nhưng giới thống trị Anh, Pháp vẫn không thay đổi chính sách; họ vẫn tiếp tục hi vọng rằng “Hítle sẽ quyết định hướng đội quân về phía Đông chống Nga”. Tướng Đờ Gôn đã viết trong hồi kí: ”Phải nói rằng một số giới muốn nhìn kẻ thù ở Xtalin hơn là Hítle. Họ lo lắng đến những biện pháp để đánh nước Nga – hoặc giúp Phần Lan, hoặc ném bom Bacu hoặc đổ bộ ở Xtambun nhiều hơn cách làm sao để thắng đế chế Đức”.
Trong khi đó thì Đức đang chuẩn bị tỉ mỉ kế hoạch đánh các nước Tây Âu. Gián điệp của Đức len lỏi khắp các nước mà chúng sẽ xâm chiếm.
Ngày 9-4-1940, quân Đức tràn vào Đan Mạch. Vua và chính phủ không kháng cự, ra lệnh cho quân đội hạ vũ khí. Cùng ngày, quân Đức đổ bộ lên tất cả các cảng lớn của Na Uy. Nhân dân Na Uy kháng chiến rất dũng cảm. Chiến sự đã diễn ra ác liệt ở nhiều nơi. Nhưng bọn tay sai của Hítle ở Na Uy đã phản bội Tổ quốc. Na uy bị đánh bại. Quân Anh, Pháp sang cứu bị đánh bật ra biển.
Ngày 10-5, vào 5 giờ 30 sáng, quân Đức tràn vào Bỉ, Hà Lan, Lucxembua và Pháp. Mặt trận chính phía Tây bây giờ mới chính thức diễn ra. Lực lượng hai bên không chênh lệch nhau lắm. Đức ném vào cuộc tấn công 136 sư đoàn (kẻ cả dự bị). Quân Đồng minh có 130 sư đoàn (91 sư đoàn Pháp, Anh – 10 sư đoàn, Bỉ 22, Hà Lan – 9 và Ba Lan – 1). Nhưng Đức có nhiều máy bay và xe tăng hơn. Kế hoạch tác chiến của Đức lại dựa trên sự tấn công bất ngờ, sự thiếu chuẩn bị về tâm lý của đối phương, và chiến thuật tốc chiến tốc thắng, dùng máy bay và xe tăng tiến nhanh, thọc sâu, chia cắt và bao vây đối phương.
Ngày 10-5, quân của Phôn Bốc vượt qua sông Mơdơ (Mense), đồng thời nhảy dù xuống chiếm các sân bay, các đầu mối giao thông và các cứ điểm quan trọng của Hà Lan và Bỉ.
Ngày 15-5, quân đội Hà Lan phải đầu hàng, Chính phủ Hà Lan chạy sang Luân Đôn. Ngày 27-5, đến lượt Bỉ đầu hàng vô điều kiện.
Trong khi đó, quân của Phôn Runxtét vượt qua Lucxembua, đánh bại đạo quân thứ 9 của Pháp do tướng Coráp chỉ huy, chọc thủng phòng tuyến của Pháp trên một khu vực rộng 90km giữa Xơđăng và Namuya. Phòng tuyến Maginô (Ligue Maginot) mà Pháp vẫn thường khoe khoang đã trở nên vô tác dụng. Những binh đoàn xe tăng của tướng Klaixtơ (Kleist) đang tiến vế hướng Pari.
Ngày 5-6, quân Đức tiến về phía Pari như báo tãp. Giai cấp thống trị Pháp hèn nhát đã nghĩ đến chuyện đầu hàng. Một số tên phản bội và chủ trương đầu hàng đã được bổ sung vào chính phủ (như Thống chế Pêtanh). Ngày 10-6, Chính phủ bỏ Pari chạy về Tua.
Cùng ngày đó, Italia tuyên chiến với Anh và Pháp và tấn công vào Đông Nam nước Pháp. Từ lâu, Italia vẫn dòm ngó một phần lãnh thổ Pháp và một số thuộc địa của Pháp. Khi thấy Pháp đang nguy ngập, sắp thua, ltalia vội vàng nhẩy vào để ”dính máu ăn phần”. Sự tham chiến của Italia cũng làm cho tình hình của Pháp thêm nghiêm trọng.
Trong thời gian này, ở Tua đã diễn ra cuộc thương lượng giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ Anh và Anh muốn biến Pháp thành một tỉnh của Anh. Ngày 16-6, Sớcsin đưa ra đề nghị về việc kí kết ”liên minh không thể hủy bỏ” giữa Anh và Pháp, theo đó thì Anh và Pháp sẽ trở thành một quốc gia thống nhất với một hiến pháp thống nhất và những cơ quan chính và những cơ quan chính quyền trung ương thống nhất. Chính phủ Pháp chia làm 2 nhóm: một nhóm do Râynô cầm đầu sẵn sàng giao nước Pháp cho đế quốc Anh, một nhóm do Pêtanh cầm đầu muốn đầu hàng phát xít Đức và cho rằng ”thà làm một tỉnh quốc xã còn hơn là một xứ tự trị của Anh”. Không có một nhân vật nào trong Chính phủ chấp nhận một chương trình đấu tranh cho tự do và độc lập của nước Pháp như đề nghị của Đảng Cộng sản Pháp.
Đa số thành viên trong chính phủ Pháp chấp nhận sự đầu hàng. Ngày 17-6, Râynô từ chức, Pêtanh lên cầm đầu chính phủ xin hàng Đức, Italia với những điều kiện nhục nhã. Theo hiệp định đình chiến kí ở Rơtôngđơ (Rethondes), Đức có tất cả quyền hành của một cường quốc chiếm đóng: 3/4 nước Pháp bị chiếm đóng, trong đó có Pari, tất cả vùng công nghiệp của đất nước (nơi sản xuất 98% gang và thép); vùng Andát và Loren sáp nhập vào Đức, nước Pháp bị tước vũ trang chỉ để lại một ít cho Chính phủ Pháp duy trì trật tự) và phải nuôi quân đội chiếm đóng, Chính phủ Pháp đóng ở Visi chỉ là bù nhìn tay sai của bọn phát xít chiếm đóng. Nền Cộng hòa Pháp bị thủ tiêu, thay thế bằng chế độ độc tài quân sự do Pêtanh cầm đầu, tự phong làm Quốc trưởng. Nhân dân Pháp bị đói, rét trong khi hàng trăm chuyến tầu chở đầy những của cải của Pháp đưa sang Đức.
Nguyên nhân tấn thảm kịch của nước Pháp là do sự phản bội của giai cấp tư sản thống trị ở Pháp. Nhân dân Pháp không được động viên bảo vệ Tổ quốc, trái lại còn bị đàn áp, cấm đoán.
Nhưng nhân dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đã phản đối đường lối đầu hàng của giai cấp tư sản, mở rộng cuộc đấu tranh chống bọn xâm lược Đức và Đảng Cộng sản Pháp đứng ra tổ chức lực lượng kháng chiến bên trong nước Pháp.
Trong khi đó, Đờ Gôn (lúc này đang công cán ở Anh), đã không chịu đầu hàng và tích cực tập hợp một số người Pháp ở hải ngoại. Ngày 27-10-1940, Đờ Gôn thành lập ”Chính phủ Pháp tự do”, mưu dựa vào lực lượng Anh, Mĩ đã giải phóng đất nước.
3. Đức tấn công Anh
Tháng 7-1940, Hítle đề ra kế hoạch ”Sư tử biển” nhằm đổ bộ lên Anh. Kế hoạnh ”Sư tử biển” nhằm hai mục đích: dọanước Anh để từ đó tạo điều kiện cần thiết cho việc thỏa hiệp với Anh; che đây việc bị mất tập trung quân chuẩn bị tấn công Liên Xô, đánh lạc hướng dư luận thế giới.
Tháng 8-1940, cuộc tấn công bằng không quân của Đức vào nước Anh được bắt đầu với tên gọi ”Cuộc đấu tranh giành nước Anh”. Trong những trận không chiến ác liệt, ưu thế thuộc về Đức vì Đức có nhiều máy bay hơn. Tuy nhiên, Anh cũng có nhiều lợi thế. Hồi đó ở bờ Biển Đông, Anh đã có mạng lưới rađa, tuy chưa hoàn thiện lắm, nhưng đã giúp cho quân Anh sớm phát hiện được những máy bay địch đang đến gần bờ biển Anh. Không quân Anh chiến đấu trên mảnh đất mình nên cũng có lợi thế. Cả hai bên đều thiệt hại nặng nề. Đức chuyển sang ném bom ban đêm. Thủ đô Luân Đôn bị hàng vạn tấn bom tàn phá dữ dội. Ngoài ra, Đức phong tỏa chặt chẽ hải phận bằng ”Chiến tranh tầu ngầm”, đánh đắm đất nhiều tầu chiến của Anh. Tình hình của Anh càng thêm nghiêm trọng.
Anh cầu cứu Mĩ. Mĩ định lợi dụng cơn hoạn nạn của Anh, thông qua “sự giúp đỡ” để biến đế quốc Anh thành bạn đồng minh đàn em của mình.
Lợi dụng tỉnh hình thiếu vũ khí của Anh sau vụ Đoongkéc, Mĩ hứa sẽ giúp vũ khí cho Anh nhưng với những điều kiện nặng nề: Anh phải giao cho Mĩ những căn cứ rất quan trọng về chiến lược ở Đại Tây Dương cùng những phát minh khoa học kĩ thuật mới nhất của Anh (như rađa, những công trình nghiên cứu về bom nguyên tử của các nhà bác học Anh, Pháp v. v…).
Để đổi lại, Mĩ đã giao cho Anh gần l triệu khẩu súng trường thời kì những năm 1917 – 1918 với 50 chiếc khu trục hạm rất cũ kĩ.
Như vậy, trong khi ủng hộ Anh, Mĩ vẫn coi Anh là địch thủ đế quốc chủ nghĩa và cố làm suy yếu Anh đến mức tối đa. Đó là tính chất của sự hợp tác Anh – Mĩ.
4. Cuộc xâm lược phát xít ở Bancăng và Trung Cận Đông
Ngày 27-9-1940, Đức Italia và Nhật đã kí hiệp ước đồng minh quân sự và chính trị ở Béclin. Hiệp ước này, như lời thú nhận của Thủ tướng Nhật Cônôiê trong tập hồi kí của ông, ”trước hết nhằm chống Liên Xô”. Nhưng nó không những chỉ chống Liên Xô mà còn chống cả Anh, Mĩ. Hiệp ước đề ra không úp mở việc phân chia thế giới: Đức, Italia ở châu Âu; Nhật ở Viễn Đông.
Đức đã lợi dụng những mâu thuẫn giữa các nước Bancăng để chiếm đóng các nước Bancăng (như để lôi kéo Hung về phía mình, Đức đã lợi dụng sự bất mãn của Hung). Ở Hội nghị Viên tháng 8-1940, Đức và Italia đã đứng ra với danh nghĩa ”trọng tài”, quyết định cắt một vùng đất lớn của Rumani là Tơranxinvania giao cho Hung và hứa với Rumani sẽ ”đền bù” bằng đất đai của Liên Xô. Đức lại giúp bọn tay sai ở Rumani làm chính biến, đưa những phần tử chống Liên Xô lên nắm chính quyền, do tướng Antônexcô cầm đầu. Với sự thỏa thuận của Antônexcô, ngày 7-10-1940, quân đội Đức kéo vào Rumani. Sau đó, lần lượt Hunggari, Rumani và Xlôvakia đều tuyên bố tham gia Hiệp ước Béclin (ll-1940).
Tháng 3-1941, chính phủ phát xít Bungari đã phản bội nhân dân khi tham gia hiệp ước Béclin và để cho quân đội Đức vào chiếm đóng.
Thế là cuối năm 1940, đầu năm 1941, các nước Xlôvakia, Hunggari, Rumani, Bungari đã trở thành ”chư hầu” của Đức và không tốn một viên đạn, quân đội Đức đã chiếm đóng tất cả những căn cứ quan trọng trên các nước đó, lập thành một vành đai bao vây miền Tây Liên Xô và bao vây miền Đông Bắc Hi Lạp và Nam Tư.
Đối với hai nước Hi Lạp và Nam Tư, bọn phát xít Đức – Italia khuất phục bằng vũ lực. Phát xít Italia cũng muốn đi trước Đức trong việc xâm chiếm vùng Bancăng.
Ngày 28-10-1940, phát xít Italia bất ngờ tấn công Hi Lạp từ phía Anbani, không báo trước cho Đức và cũng không được sự thỏa thuận của Đức, 20 vạn quân Italia hùng hổ kéo vào Hi Lạp, dự định chiếm thủ đô Aten sau mấy tiếng đồng hồ. Nhưng một tuần lễ sau, quân Italla vẫn không đi quá l0 cây số. Đầu tháng, quân Hi Lạp có quân Anh trợ lực bắt đầu phản công và quét sạch quân Italia ra khỏi Hi Lạp. Hi Lạp còn chiếm luôn cả Anbani thuộc Italia.
Lúc này Italia cũng đang thua liên tiếp ở châu Phi. Khi chiến tranh ở châu Phi mới bắt đầu, Italia đã lợi dụng tình hình khó khăn và mắc kẹt của Anh, Pháp ở Tây Âu để xâm chiếm các thuộc địa của Anh, Pháp ở châu Phi. Quân Italia đã chiếm Xômali thuộc Anh, Kênia, Xuđăng và vượt biên giới Libi tiến vào đất Ai Cập. Nhưng, ngày 9-10-1940, quân Anh đột ngột chuyển sang tấn công ở Bắc Phi, đẩy lùi quân Italia, và đến hè 1941, đã chiếm được tất cả các thuộc địa của Italia ở Đông Phi, kể cả Êtiôpi mà Italia mới chiếm trước chiến tranh.
Trong suốt thời gian đó, trước tình hình khó khăn của Italia, Đức vẫn không giúp đỡ gì cho bạn đồng minh. Đức muốn trừng phạt Italia về tội “không nghe lời”, làm cho Italia suy yếu để phải phục tùng mình.
Đức cũng muốn khuất phục Chính phủ Nam Tư như kiểu khuất phục các nước Bancăng khác. Nhưng nhân dân Nam Tư đã nổi dậy khởi nghĩa, lập chính phủ mới, kí hiệp ước thân thiện và không xâm phạm với Liên Xô ngày 5-4-1941. Trước tình hình đó. Hítle phải ra lệnh hoãn lui việc thực hiến kế hoạch Bacbarôxa và quyết định đè bẹp Nam Tư và Hi Lạp trước.
Đêm 6-4-1941, không quân Đức dội bom xuống thủ đô Nam Tư và 56 sư đoàn Đức cùng chư hầu tràn vào Nam Tư. Chính phủ Nam Tư không dám chống cự, bỏ chạy sang Ai Cập. Cùng ngày đó, quân Đức cũng mở cuộc tấn công vào Hi Lạp. Quân đội Hi Lạp phải đầu hang, Quân đội Anh cũng bị đánh bật xuống biển (một vụ Đoong Kéc thứ hai).
Nam Tư và Hi Lạp bị chiếm đóng. Đức lập nên ở đó những chính phủ bù nhìn và cắt một phần quan trọng đất đai của hai nước này chia cho các nước chư hầu khác như Italia, Hunggari, Bungari.
Việc phát xít Đức chiếm bán đảo Bancăng là một biện pháp chiến lược quân sự quan trọng để tấn công Liên Xô. Nhưng hi vọng của bọn Hítle đã hoàn toàn không thực hiện được. Phong trào giải phóng dân tộc ngày càng lớn mạnh, đặc biệt là ở Nam Tư và Hi Lạp, đã biến cuộc chiếm đóng các nước Bancăng thành một cuộc chiến tranh dằng dai và đẫm máu. Cuộc chiến tranh này đã cản trở bọn Hítle tận dụng tiềm lực của các nước này trong cuộc chiến tranh chống Liên Xô .
II. Giai đoạn thứ hai (22-6-1941 đến 19-11-1942): Phe phát xít tấn công Liên Xô, mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn thế giới.
l. Đức tấn công Liên Xô
Ngày 22-6-1941, vào 3 giờ 30 sáng, không tuyên chiến và cũng không đưa ra một yêu sách gì, phát xít Đức bất ngờ mở cuộc tấn công trên khắp biên giới phía Tây của Liên Xô từ Biển Đen đến biển Ban Tích, chà đạp thô bạo lên hiệp ước không xâm phạm Xô -Đức kí kết năm 1939.
Cuộc chiến tranh xâm lược Liên Xô là bộ phận quan trọng nhất trong kế hoạch chinh phục toàn cầu của đế quốc Đức, đã được Hítle và giai cấp tư sản Đức chuẩn bị kĩ lưỡng từ lâu. Sau khi thôn tính xong 11 nước châu Âu với diện tích gần 2 triệu km2, dân số 142 triệu người, phát xít Đức đã chiếm được những vị trí có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế, quân sự và lực lượng trở nên rất hùng mạnh. Đánh chiếm hầu như toàn bộ châu Âu tư bản chủ nghĩa (trừ Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha và Anh), phát xít Đức không vấp phải trở ngại hoặc tổn thất gì đáng kể, cho nên binh lính Đức rất kiêu căng ngạo mạn, tự cho mình là ”đạo quân bách chiến, bách thắng”. Chính trong bối cảnh thuận lợi này, phát xít Đức đã tiến đánh Liên Xô với mục tiêu nhằm độc chiếm kho tài nguyên vô tận của Liên Xô và tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa, kẻ thù số l của chủ nghĩa phát xít.
Theo “kế hoạch Bacbarôxa”, được thảo ra từ thang 6-1940, Hítle đã huy động 190 sư đoàn với 5,5 triệu quân, 3.712 xe tăng, 47.260 khẩu pháo, 4.950 máy bay…chia ra làm 3 đạo quân, đặt dưới quyền tổng chỉ huy của thống chế của thống chế Phôn Bơraosit (Von Brauchitsch), tiến đánh theo 3 hướng chiến lược:
– Đạo phía Bắc do thống chế Phôn Lép (Von Leeb) chỉ huy, gồm 2 tập đoàn bộ binh, 1 tập đoàn xe tăng và 1 không đội, tiến từ Đông Phổ qua Ban Tích hướng tới Lêningrát.
– Đạo trung tâm do thống chế Phôn Bốc (Von Bock) chỉ huy, gồm 2 tập đoàn quân bộ binh, 2 tập đoàn xe tăng và 1 không đội, từ Đông Bắc Vacxava hướng tới Minxcơ, Xmôlenxcơ và Mátxcơva.
– Đạo phía Nam do Chuẩn thống chế Phôn Runxtét (Von Rundsted) chỉ huy gồm 3 tập đoàn quân bộ binh, 1 tập đoàn xe tăng và 1 không đội từ vùng Liubơlin hướng tới Gitơmia, Kiép, sau đó tới Đônbát.
Chiến lược của Đức dựa trên yếu tố bất ngờ, tiến hành chọc thủng phòng tuyến Liên Xô ở nhiều chỗ bằng những múi nhọn thọc sâu xe tăng, chặn đứng sự rút lui của Hồng quân về phía Đông rồi tiến tới tiêu diệt Hồng quân bằng những trận hợp vây đồng thời ở nhiều điểm. Dự kiến của ”kế hoạch Bacbarôxa” sẽ ”đánh bại nước Nga bằng một cuộc chiến tranh chớp nhoáng trước khi kết thúc chiến tranh với Anh” (chỉ thị số 21 của Hítle). Hítle dự tính sẽ ”đánh quỵ nước Nga” trong vòng từ l tháng rưỡi đến 2 tháng.
Đi đôi với kế hoạch xâm lược về quân sự là kế hoạch cướp bóc tài nguyên và tàn sát người Nga một cách man rợ. Chỉ thị ngày 12-5-1941 của Bộ chỉ huy tối cao Đức bắt sĩ quan, binh lính Đức phải tuân theo:
“Hãy nhớ và thực hiện:
– Không có thần kinh, trái tim và sự thương xót – anh được chế tạo từ sắt, thép Đức…
– Hãy tiêu diệt trong mình mọi sự thương xót và đau khổ hãy giết bất kì người Nga nào và không được dừng lại, dù trước mặt anh là ông già hay phụ nữ, con gái hay con trai.
– Chúng ta phải bắt thế giới đầu hàng…anh là người Đức, và là người Đức phải tiêu diệt mọi sự sống cản trở con đường của anh”.
2. Cuộc chiến đấu quyết liệt để bảo vệ Mátxcơva và Xtalingrát
Trước lời kêu gọi của Đảng và Nhà nước. “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa lâm nguy!” ”Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nhân dân Liên Xô đã nhất tề đứng dậy, già trẻ, trai gái, triệu người như một, xông thẳng tới quân thù xâm lược. Trong những điều kiện rất khó khăn, bất lợi do yếu tố bất ngờ và so sánh lực lượng quân chênh lệch gây nên, quân và dân Liên Xô đã phải trải qua những cuộc chiến đấu mở đầu hết sức gay go, quyết liệt với những hi sinh và tổn thất nặng nề.
Trước tiên là những trận chiến đấu để bảo vệ biên giới của Tổ quốc, lúc này Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô không còn cách nào khác, ngoài việc thực hiện phòng ngự về chiến lược, nhằm những mục đích:
– “Kìm chân quân phát xít thật lâu trên các tuyến phòng ngự để tranh thủ thời gian nhiều nhất đưa các lực lượng từ phía sau tới và thành lập các lực lượng dự bị mới, điều động và triển khai các lực lượng đó trên các hướng quan trọng nhất.
– Gây cho địch những thiệt hại lớn nhất, làm cho chúng mỏi mệt vàhao hụt và do đó phần nào làm cân bằng so sánh lực lượng.
– Đảm bảo thực hiện các biện pháp của Đảng và Chính phủ trong việc di chuyển nhân dân và các mục tiêu công nghiệp vào phía sâu trong nước, tranh thủ thời gian để chuyển sản xuất công nghiệp sang phục vụ nhu cầu chiến tranh.
– Tích luỹ tối đa các lực lượng và chuyển sang phản công để đập tan toàn bộ kế hoạch chiến tranh của bọn Hítle”.
Những trận chiến đấu bảo vệ biên giới đã diễn ra hết sức dũng cảm, oanh liệt. Quân và dân Xô viết đã giữ từng tấc đất, từng ngôi nhà trong những điều kiện hết sức chênh lệch về quân số và vũ khí.
Mặc dù phải thực hiện những cuộc rút lui để bảo toàn lực lượng, thậm chí phải mở những ”đường máu” vượt qua những vòng vây của quân địch với tổn thất khá nặng nề, nhưng Hồng quân đã kìm chân được bước tiến của kẻ thù, làm cho chúng không thực hiện được ý đồ sẽ kết thúc cuộc chiến đấu ở biên giới trong vòng ”nửa giờ đồng hồ” như kế hoạch đã định. Nhờ đó, Hồng quân có thời gian và điều kiện để tổ chức lực lượng, củng cố tuyến phòng ngự theo chiều sâu.
Đến giữa tháng 7, mặt trận biên giới coi như kết thúc, và quân đội phát xít Đức
Tới tháng 9/1945, nước Nhật phát xít, đồng minh của Hitler, đã giày xéo Trung Hoa mênh mông được hai năm và tiếp tục gia tăng các hoạt động xâm lăng của mình ở châu Á. Cũng ở thời điểm đó, Hitler đã nuốt gọn nước Áo và Tiệp Khắc (nay là CH Czech và Slovakia). Tuy nhiên, người ta lại coi điểm khởi đầu cho cuộc chiến tranh thế giới thứ hai là ngày 1/9/1939, khi quân Đức tấn công vào Ba Lan, chứ không phải là ngày 3/9/1939, khi nước Anh và nước Pháp, đồng minh của Ba Lan, tuyên chiến với Berlin. Và ở thời điểm đó, lãnh tụ Liên Xô Iosif Stalin lại cho rằng không phải Berlin mà chính London cùng Paris là những người tuyên chiến.
Vì sao?
Trong cuộc trò chuyện với phóng viên Báo Nga “Komsomolskaya Pravda”, tiến sĩ khoa học lịch sử Oleg Butdnitsky, giám đốc Trung tâm Quốc tế lịch sử học và xã hội học chiến tranh thế giới thứ hai, đã lý giải về câu chuyện này.
Sự thay đổi định hướng tuyên truyền
PV:Trên báo Pravda ngày 1/12/1939, Stalin đã tuyên bố rằng không phải nước Đức đã tấn công Anh và Pháp mà là ngược lại.
TS Oleg Butdnitsky: Liên Xô khi đó có ký hiệp ước về không tấn công lẫn nhau với Đức, kèm theo cả kế hoạch bí mật phân chia châu Âu. Vì thế đường lối của Moskva sau khi ký hiệp ước này là: những người Anh và Pháp đã châm lửa chiến tranh. Theo định hướng đó là các bài viết trên báo chí Xôviết trong mùa thu và mùa đông năm 1939. Và phát biểu của Stalin cũng theo dòng thay đổi định hướng tuyên truyền này. Chính sách đối ngoại của Liên Xô trong nửa cuối năm 1939 đã có sự thay đổi đột ngột. Thu gọn lại những lời lẽ chống phát xít.
Vì sao?
– Stalin quan tâm tới việc để chiến tranh diễn ra càng ở xa biên giới của nước mình càng tốt. Hiện vẫn còn biên bản ghi lại nội dung cuộc gặp của người đứng đầu Quốc tế Cộng sản Dmitrov – ông này đã nhận được lời giải thích từ Stalin trước mặt Vyacheslav Molotov và Andrei Zhdanov về bản chất trong chính sách của quốc gia Xôviết. Stalin lý giải rằng, hiện đang diễn ra cuộc chiến đấu giữa hai nhóm các quốc gia tư bản chủ nghĩa , nên cứ mặc kệ họ tỉ thí với nhau.
Nhưng chính Hitler ngay buổi sáng 1/9/1939 đã đưa ra đề nghị hòa bình với nước Anh?
– Người Đức ở những giai đoạn sau đó đã không chỉ một lần đưa ra đề nghị hòa bình với nước Anh (có tới 7 lần tất cả!), trong đó có đề nghị hòa bình ở thời điểm mùa hè năm 1940, ngay lập tức sau khi đánh bại nước Pháp. Hitler hiểu rõ rằng, khi ấy, hạm đội Anh vẫn là lực lượng thống soái trên biển, không quân Anh cũng đang rất mạnh. Người Đức không khước từ cơ hội ký hòa ước cùng London với điều kiện Berlin sẽ được rảnh tay trên lục địa. Nhưng nước Anh đã không chấp nhận cuộc chơi này.
Thế vì sao London và Paris chỉ tới ngày 3-9-1939 mới tuyên chiến với Berlin?
– Phải, chính Anh và Pháp đã tuyên chiến với Đức – và đó là lúc khởi đầu chiến tranh thế giới thứ hai. Hai nước này hành động như thế theo đúng bổn phận của mình đối với Ba Lan – chả là trước đó một năm họ cũng đã có một thỏa thuận với Hitler ở Munich. Và họ đã hy vọng rằng khi đã hy sinh một phần Tiệp Khắc cho Đức thì họ sẽ giữ được hòa bình cho châu Âu. Thế nhưng chẳng bao lâu sau Hitler đã nuốt chửng toàn bộ Tiệp Khắc và mọi sự trở nên rõ ràng là trùm phát xít sẽ không dừng lại ở đó. Chính vì thế nên họ buộc phải tuyên chiến.
Quân đội Anh và Pháp liệu đã có thể vào Ba Lan mùa thu năm 1939 hay không?
– Họ cũng đã định giúp đỡ Ba Lan. Không rõ mọi việc đã diễn tiến ra sao nếu người Đức không đánh bại người Ba Lan nhanh tới như thế. Nhưng kiểu gì thì cũng không thể có hòa bình giữa Đức với Anh cùng Pháp.
Trò tháu cáy của trùm phát xít
Hitler từng thêm một lần kêu gọi hòa bình với London và Paris từ diễn đàn quốc hội Đức ở giữa tháng 9/1939?
– Kẻ xâm lược nào cũng muốn làm ra vẻ như mình chỉ là nạn nhân -“chúng tôi bắt buộc phải tấn công vì rằng…”. Hitler đã làm như thể mình là nạn nhân của việc người Ba Lan tấn công vào đài phát thanh của Đức và vin vào cớ đó để xâm lược Ba Lan. Y đã muốn tỏ ra mình là người bị hại.
Dù gì thì cũng thật kỳ quặc nếu coi Hitler như kẻ muốn kiến tạo hòa bình…
– Ở trong chính nước Đức thì Hitler trước khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra cũng đã được coi là vị “thủ tướng của hòa bình”. Trước sự kiện này thì y đã giải quyết được các vấn đề lãnh thổ gần như không phải đổ máu – tại Áo và tại khu vực Sudeten.
Hàng loạt nhà sử học Anh cho rằng, ở thời điểm tháng 9/1939, Hitler không hẳn đã không muốn một cuộc chiến tranh lớn mà chỉ đơn giản y chưa đủ sẵn sàng để tiến hành một cuộc chiến tranh như thế?
– Hitler đã không muốn có một cuộc chiến tranh lớn – trong bất luận trường hợp nào thì y cũng không muốn có một cuộc chiến tranh kéo dài. Y dự định không phải là một cuộc chiến tranh thế giới mà là hàng loạt những cuộc tấn công nhanh gọn. Để giải quyết những nhiệm vụ do y đặt ra – thỏa mãn cái ý tưởng rồ dại của y về một không gian sinh tồn cần thiết cho chủng tộc Aria. Và y cần được phục thù trước nỗi nhục Versailles (nơi ký hiệp ước đánh dấu thảm bại của Berlin trong chiến tranh thế giới thứ nhất) – thâu tóm không chỉ nước Pháp mà cả Ba Lan, nước đã lấy một phần những vùng lãnh thổ từ xưa vẫn thuộc về nước Đức. Nói rất rõ về điều này là chính sách kinh tế của Đức.
Tức là sao?
– Nước Đức ngay cả sau khi đã đánh bại Pháp vẫn không buồn đẩy nhanh sự phát triển công nghiệp quân sự. Hitler đã cho rằng y lúc đó đã đủ thực lực rồi và cuộc chiến với Liên Xô sẽ nhanh kết thúc thôi. Kết quả là nền công nghiệp quân sự Đức tới những năm 1943-1944 mới đạt được cực đỉnh của mình.
Binh lính Đức, lợi dụng trò khiêu khích của một nhóm sĩ quan SS trên khu vực biên giới Đức – Ba Lan, kéo đổ thanh chắn ở trạm kiểm soát biên giới ngày 1-9-1939 với nụ cười trên môi vì không thể ngờ tới những thảm cảnh mà họ phải gặp trong tương lai.
Ba Lan nhìn từ hai phía
Ba Lan vẫn được coi là đất nước đầu tiên phải làm nạn nhân của chiến tranh thế giới, nhưng lẽ nào không phải chính Warshawa không làm dấy lên làn sóng chống lại người Đức?
– Hiển nhiên là người Ba Lan đã không yêu thích người Đức. Mọi sự trầm trọng thêm vì người Đức lại đòi hỏi phải có những nhượng bộ về lãnh thổ. Đòi phải trao lại cảng Danzig – đối với người Ba Lan thì việc này quá ư là nhạy cảm. Họ đã không hề muốn phải quy lụy sự áp đặt của người Đức. Phải, họ đã đẩy những người Đức ra khỏi vùng lãnh thổ của mình một cách ồ ạt vì coi đó là “đạo quân thứ năm” của nước Đức. Tuy nhiên, khi Hitler bắt đầu chia rẽ Tiệp Khắc và Stalin đã chuẩn bị gửi quân sang giúp đỡ những người Czech thì Ba Lan lại không cho xe tăng Xôviết đi qua lãnh thổ của mình. Không phải vì họ không yêu người Nga hơn không yêu người Đức mà đơn giản là vì họ cũng muốn chiếm lấy một phần lãnh thổ Tiệp Khắc. Người Ba Lan rõ ràng cũng không đơn giản. Tuy nhiên, chắc họ sẽ không bao giờ tấn công nước Đức trước.
Đại sứ Ba Lan ngày 5/9/1939 ở Moskva đã yêu cầu thủ tướng Molotov giúp đỡ, trong đó có cả về quân sự …
– Trước ngày 23/8/1939, Liên Xô đã luôn giương cao ngọn cờ chống phát xít. Và nhiều người đã có cảm giác rằng Liên bang Xôviết rất không muốn ở bên cạnh biên giới của mình, thay vì một nước Ba Lan không quá mạnh lại là một nước Đức phát xít hùng hậu và hiếu chiến. Theo tư duy logic của người Ba Lan lúc đó, Liên Xô cần phải giúp đỡ Ba Lan. Tuy nhiên, người Ba Lan đã bị chậm chân. Hai tuần trước đó Moskva đã ký với Berlin hiệp ước về việc không tấn công lẫn nhau.
Nếu người Ba Lan không có những cam kết của thủ tướng Anh Chamberlain thì hẳn họ đã nhượng bộ Hitler? Và khi đó thì chiến tranh thế giới thứ hai đã không bắt đầu?
– Nghĩ như thế thì đơn giản quá. Người Ba Lan là một dân tộc kiêu hãnh. Mà nguy cơ chiến tranh cứ lớn dần lên. Ngay từ khi chưa ký thỏa thuận Munich thì nhiều người đã hiểu rõ sự vô ích của chính sách xoa dịu Hitler. Ngay cả ở trong nước Anh. Thậm chí ngay cả Churchill cũng lên tiếng phản đối chính sách đó. Ông ấy đã cho rằng, cần phải giải quyết vấn đề ngay từ khi nước Đức chưa trở nên mạnh hơn. Và những cam kết của nước Anh đối với Ba Lan, đó chỉ là khao khát muốn phục thù một phần vì “vị đắng Munich”. Ở thời điểm đó đã thấy rõ rằng, người Anh không thể nào bảo vệ nổi Ba Lan. Nước Anh khi đó không có lực lượng bộ binh đủ mạnh.
Người Mỹ tối trí
Thế còn nước Mỹ và tổng thống Roosevelt liệu có đã “xui nguyên giục bị” để Ba Lan, Anh và Pháp mau mau gây chiến với Hitler hay không? Hay là họ chỉ “tọa sơn quan hổ đấu”?
– Nước Mỹ đã không thể là kẻ đóng vai trò “xui nguyên giục bị” được, đơn giản vì họ không thể nào làm cho London, Paris và Berlin đụng độ lẫn nhau. Cả ba bên đó khi ấy đều có chính sách tự lập của mình. Nhưng Roosevelt khi ấy cũng đã hiểu rằng, cần phải giải quyết vấn đề Hitler. Chỉ có điều ông ấy đã không hiểu là phải giải quyết bằng cách nào. Tại Mỹ đã rất mạnh quan điểm cho rằng không cần can thiệp vào công việc ở châu Âu. Và Roosevelt ấy cũng bị bó chân bó tay. Năm 1939, ông ấy đã không có công cụ gì để ngăn chặn chiến tranh thế giới thứ hai: ở thời điểm đó nước Mỹ đã không có một quân đội mạnh, nền công nghiệp quân sự cũng chưa phát triển. Cho tới trước tháng 12/1941, trước sự kiện Trân Châu cảng, nước Mỹ chưa phải là một bên tham chiến.
Khi nào thì Stalin hiểu ra rằng, ông không thể nào tránh khỏi việc phải đụng độ với Hitler?
– Trước khi nước Đức tấn công Ba Lan thì điều này vẫn chưa hiện ra rõ ràng. Mặc dù đối với người Đức, cuộc tấn công Ba Lan đã không phải là một chuyến du hí nhẹ nhàng. Chỉ riêng ở Ba Lan họ đã mất tới 560 máy bay, điều khiến họ cảm thấy cực kỳ bất ngờ! Thế nhưng, tới cuộc chiến với Pháp thì người Đức đã chuẩn bị rất tốt. Họ chỉ cần đúng sáu tuần để đánh bại nước Pháp. Và trong hai năm 1939–1940, nước Đức đã trở thành cường quốc quân sự mạnh nhất châu Âu. Và khi ấy, tới tháng 6/1940, Stalin mới giật mình nhận ra rằng trên lục địa châu Âu, ông không chỉ phải một mình đối mặt với Hitler mà với cả nước Đức cùng một bầy đồng minh của họ..
Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939 – 1945)
Chiến tranh thế giới thứ hai đã diễn ra trên nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu (mặt trận phía Tây); mặt trận Xô – Đức (mặt trận phía Đông); mặt trận Bắc Phi; mặt trận châu Á – Thái Bình Dương và mặt trận trong lòng địch của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng, trong đó, mặt trận chủ yếu, quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Chiến tranh thế giới thứ hai là mặt trận Xô – Đức.
Hồng quân Xô Viết tổ chức phản công phát xít Đức ở Mặt trận phía Tây Mát-xcơ-va
Từ 1939 đến 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai đại thể đã trải qua 5 giai đoạn:
1. Giai đoạn thứ nhất: từ 1-9-1939 (ngày Đức tấn công Ba Lan, mở đầu đại chiến) đến 22-6-1941 (ngày phát xít Đức tấn công Liền Xô).
2. Giai đoạn thứ hai: từ 22-6-1941 đến 19-11-1942 (ngày mở đầu cuộc phản công ở Xtalingrat).
3. Giai đoạn thứ ba: từ 19-11-1942 đến 24-12-1943 (ngày mở đầu cuộc tổng phản công của Hồng quân Liên Xô trên khắp các mặt trận).
4. Giai đoạn thứ tư: từ 24-12-1943 đến 9-5-1945 (ngày phát xít Đức đầu hàng, chiến tranh kết thúc ở châu Âu).
5. Giai đoạn thứ năm:từ 9-5-1945 đến 14-8-1945 (ngày Phát xít Nhật đầu hàng, Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt).
I. Giai đoạn thứ nhất (1-9-1939 đến 22-6-1941):
l. Đức tấn công Ba Lan và bước khởi đầu của chiến tranh thế giới (9-1939 đến 4 – 1940).
Ngày 1-9-1939, không tuyên chiến, quân Đức tràn vào Ba Lan. Để tấn công Ba Lan, Đức đã có sự chuẩn bị từ lâu và đưa vào Ba Lan một lực lượng to lớn; 70 sư đoàn (trong đó có 7 sư đoàn xe tăng và 6 sư đoàn cơ giới, với hơn 3000 máy bay). Trong khi đó, Ba Lan thiếu chuẩn bị về tinh thần và vật chất. Một bộ phận lớn quân đội Ba Lan lại tập trung ở biên giới phía Đông để chống Liên Xô, trong khi đó Đức có ưu thế tuyệt đối về quân số và trang bị. Chúng lại lợi dụng yếu tố bất ngờ và thực hiện chiến thuật ”đánh chớp nhoáng”, dùng xe tăng và máy bay thọc sâu, bao vây, khiến cho Ba Lan không chống đỡ nổi.
Từ ngày 12 đến 16-9, vòng vây của Đức xiết chặt chung quanh Vacxava và quân Đức tiếp tục tiến về phía Đông chiếm Bret-Litôp, Lubơlin và Lvốp. Bọn phản động cầm quyền Ba Lan không đủ sức chỉ đạo về quốc phòng. Sau những đòn thất bại đầu tiên, chúng đều hèn nhát bỏ trốn sang Rumani. Nhưng nhân dân Ba Lan không chịu hạ khí giới. Những đảng viên cộng sản từ trong tù hay trong bí mật ra lãnh đạo cuộc chiến đấu bảo vệ Vacxava. Họ chiến đấu rất anh dũng, đập tan1 sư đoàn thiết giáp Đức tiến vào thành phố, nhưng không thể nào cứu vãn nổi. Vacxava tan hoang trong khói lửa cuối cùng đã bị thất thủ. Nước Ba Lan bị Đức thôn tính. Trong khi đó, một cuộc “chiến tranh kì quặc” đã diễn ra ở phía Tây nước Đức.
Liên quân Pháp, Anh dàn trận ở Bắc Pháp dọc theo biên giới Đức, nhưng không tấn công Đức và cũng không có một hành động quân sự nào để đỡ đòn cho Ba Lan. Hiện tượng ”tuyên” mà không ”chiến” (được các nhà báo Mĩ gọi là ”cuộc chiến tranh kì quặc”, người Pháp gọi là cuộc chiến tranh “buồn cười”, còn người Đức gọi là chiến tranh ”ngồi”) kéo dài suốt trong 8 tháng (từ 9-1939 đến 4-1940). Trong suốt thời gian này, quân đội hai bên hầu như chỉ ngồi trong chiến lũy nhìn sang nhau, thỉnh thoảng quân Pháp mở những cuộc tiến công nhỏ có tính chất “tượng trưng” rồi lại trở về vị trí cũ. Sở dĩ có hiện tượng này là do giới cầm quyền Anh, Pháp vẫn còn ảo tưởng về một sự thỏa hiệp với Hítle. Đồng thời cũng do Bộ tổng tư lệnh liên quân, đứng đầu là tướng Pháp Gamơlanh, đã quyết định áp dụng chiến thuật phòng ngự, mong dựa vào phòng tuyến Maginô kiên cố để đánh bại quân địch.
Mùa xuân năm 1940, Quốc hội Pháp và Anh đã nhận ra sai lầm trong đường lối mềm yếu này. Họ quyết định đưa ra những nhân vật cứng rắn lên cầm đầu chính phủ: Râynô lập chính phủ mới ở Pháp (tháng 3) và Sơcsin trở thành Thủ tướng Anh (tháng 5), nhưng đó là sự thay đổi quá muộn.
Cùng thời gian này, vào ngày 17-9-1939, theo sự thỏa thuận với Đức (qua ”Biên bản mật” ngày 24-9), quân đội Liên Xô tiến vào miền Đông Ba Lan và tiến hành cuộc chiến tranh ở biên giới phía Tây để thu hồi lãnh thổ của đế quốc Nga bị mất vào những năm 1918 – 1920. Miền Đông Ba Lan vốn là một phần lãnh thổ của Tây Ucraina và Tây Bêlarút bị trao cho Ba Lan năm 1920, nay sáp nhập trở lại với hai nước Cộng hòa Xô viết này trong Liên bang Xô viết (11-1939).
Ngày 18-9, Liên Xô lên án ba nước Ban Tích là không giữ vai trò trung lập. Dưới sức ép về quân sự, lãnh đạo ba nước Ban Tích phải lần lượt đến Mátxcơva và kí những hiệp ước không xâm lược với Liên Xô: Extônia, ngày 28-9, Látvia ngày 5-10, Litva ngày 10 -10. Đó là những hiệp ước tương trợ Extônia và Litva nhượng cho Liên Xô những căn cứ hải quân và không quân. Cả ba nước chấp nhận cho Liên Xô quyền đóng quân trên đất của họ. Thành phố Vilna và khu vực Vilna được trả lại cho Litva (27-10). Tháng 6-1940, quân Đội Liên Xô tiến vào ba nước Ban Tích, gây áp lực lật đổ các chính phủ tư sản ở đây. Các chính phủ mới được thành lập dưới sự kiểm soát của Dekanôzôp ở Litva, của Vichinsk ở Latvia và của Jđanôp ở Extônia. Ngày 14-7, bầu cử được tiến hành. Các Quốc hội mới kêu gọi sáp nhập các nước Ban Tích vào Liên Xô. Tháng 8-1940, Xô viết tối cao Liên Xô chấp nhận ba nước Ban Tích vào thành phần của Liên bang Xô viết.
Ngày 28-11, Liên Xô hủy bỏ hiệp ước không xâm lược năm 1932 và ngày hôm sau Liên Xô cắt quan hệ ngoại giao với Phần Lan. Chiến tranh Xô – Phần bùng nổ và diễn ra ác liệt trong suốt mùa đông băng giá (11-1939 đến 3-1940). Kết quả theo hiệp ước Matxcơva ngày 12-3-1940, Phần Lan phải nhường vĩnh viễn eo đất Carêli để Liên Xô thành lâp nước Cộng hòa Xô viết Carêli của mình và biên giới Phần Lan – Liên Xô được lùi xa Lêningrát thêm 150 km nữa. Ngoài ra, Phần Lan còn phải cho Liên Xô thu cảng Hănggô trong 30 năm với số tiền 8 triệu mác Phần Lan.
Betxarabia và Bắc Bucôvina là vùng tranh chấp lâu dài giữa Nga với Rumani mà Rumani chiếm được năm 1918. Xtalin gửi tối hậu thư cho Rumani đòi:
– Vùng Betxarabia mà Nga chưa bao giờ chịu mất, phải trả về cho Nga.
– Sáp nhập vùng Bắc Bucôvina mà dân cư ở đó về mặt lịch sử và về mặt ngôn ngữ gắn bó với nước Cộng hòa Xô viết Ucraina.
Trước tình hình đó, chính phủ Rumani kêu gọi sự giúp đỡ của Đức và Italia, nhưng hai nước từ chối và Rumani đành nhượng bộ. Thế là Betxarabia và Bắc Bucôvina trở thành một bộ phận thuộc nước Cộng hòa Xô viết Mônđavia của Liên Xô (8-1940).
Tính chung, Liên Xô đã lập thêm 5 nước Cộng hòa Xô viết Liên bang, mở rộng lãnh thổ 2 nước Cộng hòa Xô viết, đưa tổng số nước Cộng hòa của Liên Xô lên tới 16. Số dân mới gia nhập Liên Xô là 23 triệu người (13 triệu ở Ba Lan cũ, 10 triệu ở Rumani và trong các nước Ban Tích) Biên giới phía tây của Liên Xô được đẩy lùi thêm từ 200 – 300km.
2. Đức đánh chiếm các nước Bắc Âu và Tây Âu
Cuộc ”Chiến tranh kì quặc” đã giúp cho nước Đức phát xít mạnh lên. Lợi dụng thời gian hưu chiến suốt mùa đông 1939 – 1940, Đức phát triển bộ binh lên tới 136 sư đoàn, xe tăng – 10 sư đoàn, máy bay – 4 vạn chiếc. Thực lực của Đức khi đó tăng lên chừng gấp đôi thời kì trước khi đánh Ba Lan. Trong khi đó thì các chính phủ Anh, Pháp do theo đuổi những âm mưu chống Liên Xô đã không nghĩ đến củng cố sự phòng của đất nước. Trong những tháng ấy, sản xuất vật liệu chiến tranh của Anh và Pháp không tăng; một phần vũ khí và quân trang làm ra lại gửi sang Phần Lan.
Lập trường mù quáng chống Liên Xô làm cho giới thống trị các nước Anh và Pháp trở nên thiển cận. Mặc dầu nguy cơ tấn công của Đức vào các nước phương Tây ngày càng rõ và họ biết điều đó nhưng giới thống trị Anh, Pháp vẫn không thay đổi chính sách; họ vẫn tiếp tục hi vọng rằng “Hítle sẽ quyết định hướng đội quân về phía Đông chống Nga”. Tướng Đờ Gôn đã viết trong hồi kí: ”Phải nói rằng một số giới muốn nhìn kẻ thù ở Xtalin hơn là Hítle. Họ lo lắng đến những biện pháp để đánh nước Nga – hoặc giúp Phần Lan, hoặc ném bom Bacu hoặc đổ bộ ở Xtambun nhiều hơn cách làm sao để thắng đế chế Đức”.
Trong khi đó thì Đức đang chuẩn bị tỉ mỉ kế hoạch đánh các nước Tây Âu. Gián điệp của Đức len lỏi khắp các nước mà chúng sẽ xâm chiếm.
Ngày 9-4-1940, quân Đức tràn vào Đan Mạch. Vua và chính phủ không kháng cự, ra lệnh cho quân đội hạ vũ khí. Cùng ngày, quân Đức đổ bộ lên tất cả các cảng lớn của Na Uy. Nhân dân Na Uy kháng chiến rất dũng cảm. Chiến sự đã diễn ra ác liệt ở nhiều nơi. Nhưng bọn tay sai của Hítle ở Na Uy đã phản bội Tổ quốc. Na uy bị đánh bại. Quân Anh, Pháp sang cứu bị đánh bật ra biển.
Ngày 10-5, vào 5 giờ 30 sáng, quân Đức tràn vào Bỉ, Hà Lan, Lucxembua và Pháp. Mặt trận chính phía Tây bây giờ mới chính thức diễn ra. Lực lượng hai bên không chênh lệch nhau lắm. Đức ném vào cuộc tấn công 136 sư đoàn (kẻ cả dự bị). Quân Đồng minh có 130 sư đoàn (91 sư đoàn Pháp, Anh – 10 sư đoàn, Bỉ 22, Hà Lan – 9 và Ba Lan – 1). Nhưng Đức có nhiều máy bay và xe tăng hơn. Kế hoạch tác chiến của Đức lại dựa trên sự tấn công bất ngờ, sự thiếu chuẩn bị về tâm lý của đối phương, và chiến thuật tốc chiến tốc thắng, dùng máy bay và xe tăng tiến nhanh, thọc sâu, chia cắt và bao vây đối phương.
Ngày 10-5, quân của Phôn Bốc vượt qua sông Mơdơ (Mense), đồng thời nhảy dù xuống chiếm các sân bay, các đầu mối giao thông và các cứ điểm quan trọng của Hà Lan và Bỉ.
Ngày 15-5, quân đội Hà Lan phải đầu hàng, Chính phủ Hà Lan chạy sang Luân Đôn. Ngày 27-5, đến lượt Bỉ đầu hàng vô điều kiện.
Trong khi đó, quân của Phôn Runxtét vượt qua Lucxembua, đánh bại đạo quân thứ 9 của Pháp do tướng Coráp chỉ huy, chọc thủng phòng tuyến của Pháp trên một khu vực rộng 90km giữa Xơđăng và Namuya. Phòng tuyến Maginô (Ligue Maginot) mà Pháp vẫn thường khoe khoang đã trở nên vô tác dụng. Những binh đoàn xe tăng của tướng Klaixtơ (Kleist) đang tiến vế hướng Pari.
Ngày 5-6, quân Đức tiến về phía Pari như báo tãp. Giai cấp thống trị Pháp hèn nhát đã nghĩ đến chuyện đầu hàng. Một số tên phản bội và chủ trương đầu hàng đã được bổ sung vào chính phủ (như Thống chế Pêtanh). Ngày 10-6, Chính phủ bỏ Pari chạy về Tua.
Cùng ngày đó, Italia tuyên chiến với Anh và Pháp và tấn công vào Đông Nam nước Pháp. Từ lâu, Italia vẫn dòm ngó một phần lãnh thổ Pháp và một số thuộc địa của Pháp. Khi thấy Pháp đang nguy ngập, sắp thua, ltalia vội vàng nhẩy vào để ”dính máu ăn phần”. Sự tham chiến của Italia cũng làm cho tình hình của Pháp thêm nghiêm trọng.
Trong thời gian này, ở Tua đã diễn ra cuộc thương lượng giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ Anh và Anh muốn biến Pháp thành một tỉnh của Anh. Ngày 16-6, Sớcsin đưa ra đề nghị về việc kí kết ”liên minh không thể hủy bỏ” giữa Anh và Pháp, theo đó thì Anh và Pháp sẽ trở thành một quốc gia thống nhất với một hiến pháp thống nhất và những cơ quan chính và những cơ quan chính quyền trung ương thống nhất. Chính phủ Pháp chia làm 2 nhóm: một nhóm do Râynô cầm đầu sẵn sàng giao nước Pháp cho đế quốc Anh, một nhóm do Pêtanh cầm đầu muốn đầu hàng phát xít Đức và cho rằng ”thà làm một tỉnh quốc xã còn hơn là một xứ tự trị của Anh”. Không có một nhân vật nào trong Chính phủ chấp nhận một chương trình đấu tranh cho tự do và độc lập của nước Pháp như đề nghị của Đảng Cộng sản Pháp.
Đa số thành viên trong chính phủ Pháp chấp nhận sự đầu hàng. Ngày 17-6, Râynô từ chức, Pêtanh lên cầm đầu chính phủ xin hàng Đức, Italia với những điều kiện nhục nhã. Theo hiệp định đình chiến kí ở Rơtôngđơ (Rethondes), Đức có tất cả quyền hành của một cường quốc chiếm đóng: 3/4 nước Pháp bị chiếm đóng, trong đó có Pari, tất cả vùng công nghiệp của đất nước (nơi sản xuất 98% gang và thép); vùng Andát và Loren sáp nhập vào Đức, nước Pháp bị tước vũ trang chỉ để lại một ít cho Chính phủ Pháp duy trì trật tự) và phải nuôi quân đội chiếm đóng, Chính phủ Pháp đóng ở Visi chỉ là bù nhìn tay sai của bọn phát xít chiếm đóng. Nền Cộng hòa Pháp bị thủ tiêu, thay thế bằng chế độ độc tài quân sự do Pêtanh cầm đầu, tự phong làm Quốc trưởng. Nhân dân Pháp bị đói, rét trong khi hàng trăm chuyến tầu chở đầy những của cải của Pháp đưa sang Đức.
Nguyên nhân tấn thảm kịch của nước Pháp là do sự phản bội của giai cấp tư sản thống trị ở Pháp. Nhân dân Pháp không được động viên bảo vệ Tổ quốc, trái lại còn bị đàn áp, cấm đoán.
Nhưng nhân dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đã phản đối đường lối đầu hàng của giai cấp tư sản, mở rộng cuộc đấu tranh chống bọn xâm lược Đức và Đảng Cộng sản Pháp đứng ra tổ chức lực lượng kháng chiến bên trong nước Pháp.
Trong khi đó, Đờ Gôn (lúc này đang công cán ở Anh), đã không chịu đầu hàng và tích cực tập hợp một số người Pháp ở hải ngoại. Ngày 27-10-1940, Đờ Gôn thành lập ”Chính phủ Pháp tự do”, mưu dựa vào lực lượng Anh, Mĩ đã giải phóng đất nước.
3. Đức tấn công Anh
Tháng 7-1940, Hítle đề ra kế hoạch ”Sư tử biển” nhằm đổ bộ lên Anh. Kế hoạnh ”Sư tử biển” nhằm hai mục đích: dọanước Anh để từ đó tạo điều kiện cần thiết cho việc thỏa hiệp với Anh; che đây việc bị mất tập trung quân chuẩn bị tấn công Liên Xô, đánh lạc hướng dư luận thế giới.
Tháng 8-1940, cuộc tấn công bằng không quân của Đức vào nước Anh được bắt đầu với tên gọi ”Cuộc đấu tranh giành nước Anh”. Trong những trận không chiến ác liệt, ưu thế thuộc về Đức vì Đức có nhiều máy bay hơn. Tuy nhiên, Anh cũng có nhiều lợi thế. Hồi đó ở bờ Biển Đông, Anh đã có mạng lưới rađa, tuy chưa hoàn thiện lắm, nhưng đã giúp cho quân Anh sớm phát hiện được những máy bay địch đang đến gần bờ biển Anh. Không quân Anh chiến đấu trên mảnh đất mình nên cũng có lợi thế. Cả hai bên đều thiệt hại nặng nề. Đức chuyển sang ném bom ban đêm. Thủ đô Luân Đôn bị hàng vạn tấn bom tàn phá dữ dội. Ngoài ra, Đức phong tỏa chặt chẽ hải phận bằng ”Chiến tranh tầu ngầm”, đánh đắm đất nhiều tầu chiến của Anh. Tình hình của Anh càng thêm nghiêm trọng.
Anh cầu cứu Mĩ. Mĩ định lợi dụng cơn hoạn nạn của Anh, thông qua “sự giúp đỡ” để biến đế quốc Anh thành bạn đồng minh đàn em của mình.
Lợi dụng tỉnh hình thiếu vũ khí của Anh sau vụ Đoongkéc, Mĩ hứa sẽ giúp vũ khí cho Anh nhưng với những điều kiện nặng nề: Anh phải giao cho Mĩ những căn cứ rất quan trọng về chiến lược ở Đại Tây Dương cùng những phát minh khoa học kĩ thuật mới nhất của Anh (như rađa, những công trình nghiên cứu về bom nguyên tử của các nhà bác học Anh, Pháp v. v…).
Để đổi lại, Mĩ đã giao cho Anh gần l triệu khẩu súng trường thời kì những năm 1917 – 1918 với 50 chiếc khu trục hạm rất cũ kĩ.
Như vậy, trong khi ủng hộ Anh, Mĩ vẫn coi Anh là địch thủ đế quốc chủ nghĩa và cố làm suy yếu Anh đến mức tối đa. Đó là tính chất của sự hợp tác Anh – Mĩ.
4. Cuộc xâm lược phát xít ở Bancăng và Trung Cận Đông
Ngày 27-9-1940, Đức Italia và Nhật đã kí hiệp ước đồng minh quân sự và chính trị ở Béclin. Hiệp ước này, như lời thú nhận của Thủ tướng Nhật Cônôiê trong tập hồi kí của ông, ”trước hết nhằm chống Liên Xô”. Nhưng nó không những chỉ chống Liên Xô mà còn chống cả Anh, Mĩ. Hiệp ước đề ra không úp mở việc phân chia thế giới: Đức, Italia ở châu Âu; Nhật ở Viễn Đông.
Đức đã lợi dụng những mâu thuẫn giữa các nước Bancăng để chiếm đóng các nước Bancăng (như để lôi kéo Hung về phía mình, Đức đã lợi dụng sự bất mãn của Hung). Ở Hội nghị Viên tháng 8-1940, Đức và Italia đã đứng ra với danh nghĩa ”trọng tài”, quyết định cắt một vùng đất lớn của Rumani là Tơranxinvania giao cho Hung và hứa với Rumani sẽ ”đền bù” bằng đất đai của Liên Xô. Đức lại giúp bọn tay sai ở Rumani làm chính biến, đưa những phần tử chống Liên Xô lên nắm chính quyền, do tướng Antônexcô cầm đầu. Với sự thỏa thuận của Antônexcô, ngày 7-10-1940, quân đội Đức kéo vào Rumani. Sau đó, lần lượt Hunggari, Rumani và Xlôvakia đều tuyên bố tham gia Hiệp ước Béclin (ll-1940).
Tháng 3-1941, chính phủ phát xít Bungari đã phản bội nhân dân khi tham gia hiệp ước Béclin và để cho quân đội Đức vào chiếm đóng.
Thế là cuối năm 1940, đầu năm 1941, các nước Xlôvakia, Hunggari, Rumani, Bungari đã trở thành ”chư hầu” của Đức và không tốn một viên đạn, quân đội Đức đã chiếm đóng tất cả những căn cứ quan trọng trên các nước đó, lập thành một vành đai bao vây miền Tây Liên Xô và bao vây miền Đông Bắc Hi Lạp và Nam Tư.
Đối với hai nước Hi Lạp và Nam Tư, bọn phát xít Đức – Italia khuất phục bằng vũ lực. Phát xít Italia cũng muốn đi trước Đức trong việc xâm chiếm vùng Bancăng.
Ngày 28-10-1940, phát xít Italia bất ngờ tấn công Hi Lạp từ phía Anbani, không báo trước cho Đức và cũng không được sự thỏa thuận của Đức, 20 vạn quân Italia hùng hổ kéo vào Hi Lạp, dự định chiếm thủ đô Aten sau mấy tiếng đồng hồ. Nhưng một tuần lễ sau, quân Italla vẫn không đi quá l0 cây số. Đầu tháng, quân Hi Lạp có quân Anh trợ lực bắt đầu phản công và quét sạch quân Italia ra khỏi Hi Lạp. Hi Lạp còn chiếm luôn cả Anbani thuộc Italia.
Lúc này Italia cũng đang thua liên tiếp ở châu Phi. Khi chiến tranh ở châu Phi mới bắt đầu, Italia đã lợi dụng tình hình khó khăn và mắc kẹt của Anh, Pháp ở Tây Âu để xâm chiếm các thuộc địa của Anh, Pháp ở châu Phi. Quân Italia đã chiếm Xômali thuộc Anh, Kênia, Xuđăng và vượt biên giới Libi tiến vào đất Ai Cập. Nhưng, ngày 9-10-1940, quân Anh đột ngột chuyển sang tấn công ở Bắc Phi, đẩy lùi quân Italia, và đến hè 1941, đã chiếm được tất cả các thuộc địa của Italia ở Đông Phi, kể cả Êtiôpi mà Italia mới chiếm trước chiến tranh.
Trong suốt thời gian đó, trước tình hình khó khăn của Italia, Đức vẫn không giúp đỡ gì cho bạn đồng minh. Đức muốn trừng phạt Italia về tội “không nghe lời”, làm cho Italia suy yếu để phải phục tùng mình.
Đức cũng muốn khuất phục Chính phủ Nam Tư như kiểu khuất phục các nước Bancăng khác. Nhưng nhân dân Nam Tư đã nổi dậy khởi nghĩa, lập chính phủ mới, kí hiệp ước thân thiện và không xâm phạm với Liên Xô ngày 5-4-1941. Trước tình hình đó. Hítle phải ra lệnh hoãn lui việc thực hiến kế hoạch Bacbarôxa và quyết định đè bẹp Nam Tư và Hi Lạp trước.
Đêm 6-4-1941, không quân Đức dội bom xuống thủ đô Nam Tư và 56 sư đoàn Đức cùng chư hầu tràn vào Nam Tư. Chính phủ Nam Tư không dám chống cự, bỏ chạy sang Ai Cập. Cùng ngày đó, quân Đức cũng mở cuộc tấn công vào Hi Lạp. Quân đội Hi Lạp phải đầu hang, Quân đội Anh cũng bị đánh bật xuống biển (một vụ Đoong Kéc thứ hai).
Nam Tư và Hi Lạp bị chiếm đóng. Đức lập nên ở đó những chính phủ bù nhìn và cắt một phần quan trọng đất đai của hai nước này chia cho các nước chư hầu khác như Italia, Hunggari, Bungari.
Việc phát xít Đức chiếm bán đảo Bancăng là một biện pháp chiến lược quân sự quan trọng để tấn công Liên Xô. Nhưng hi vọng của bọn Hítle đã hoàn toàn không thực hiện được. Phong trào giải phóng dân tộc ngày càng lớn mạnh, đặc biệt là ở Nam Tư và Hi Lạp, đã biến cuộc chiếm đóng các nước Bancăng thành một cuộc chiến tranh dằng dai và đẫm máu. Cuộc chiến tranh này đã cản trở bọn Hítle tận dụng tiềm lực của các nước này trong cuộc chiến tranh chống Liên Xô .
II. Giai đoạn thứ hai (22-6-1941 đến 19-11-1942): Phe phát xít tấn công Liên Xô, mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn thế giới.
l. Đức tấn công Liên Xô
Ngày 22-6-1941, vào 3 giờ 30 sáng, không tuyên chiến và cũng không đưa ra một yêu sách gì, phát xít Đức bất ngờ mở cuộc tấn công trên khắp biên giới phía Tây của Liên Xô từ Biển Đen đến biển Ban Tích, chà đạp thô bạo lên hiệp ước không xâm phạm Xô -Đức kí kết năm 1939.
Cuộc chiến tranh xâm lược Liên Xô là bộ phận quan trọng nhất trong kế hoạch chinh phục toàn cầu của đế quốc Đức, đã được Hítle và giai cấp tư sản Đức chuẩn bị kĩ lưỡng từ lâu. Sau khi thôn tính xong 11 nước châu Âu với diện tích gần 2 triệu km2, dân số 142 triệu người, phát xít Đức đã chiếm được những vị trí có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế, quân sự và lực lượng trở nên rất hùng mạnh. Đánh chiếm hầu như toàn bộ châu Âu tư bản chủ nghĩa (trừ Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha và Anh), phát xít Đức không vấp phải trở ngại hoặc tổn thất gì đáng kể, cho nên binh lính Đức rất kiêu căng ngạo mạn, tự cho mình là ”đạo quân bách chiến, bách thắng”. Chính trong bối cảnh thuận lợi này, phát xít Đức đã tiến đánh Liên Xô với mục tiêu nhằm độc chiếm kho tài nguyên vô tận của Liên Xô và tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa, kẻ thù số l của chủ nghĩa phát xít.
Theo “kế hoạch Bacbarôxa”, được thảo ra từ thang 6-1940, Hítle đã huy động 190 sư đoàn với 5,5 triệu quân, 3.712 xe tăng, 47.260 khẩu pháo, 4.950 máy bay…chia ra làm 3 đạo quân, đặt dưới quyền tổng chỉ huy của thống chế của thống chế Phôn Bơraosit (Von Brauchitsch), tiến đánh theo 3 hướng chiến lược:
– Đạo phía Bắc do thống chế Phôn Lép (Von Leeb) chỉ huy, gồm 2 tập đoàn bộ binh, 1 tập đoàn xe tăng và 1 không đội, tiến từ Đông Phổ qua Ban Tích hướng tới Lêningrát.
– Đạo trung tâm do thống chế Phôn Bốc (Von Bock) chỉ huy, gồm 2 tập đoàn quân bộ binh, 2 tập đoàn xe tăng và 1 không đội, từ Đông Bắc Vacxava hướng tới Minxcơ, Xmôlenxcơ và Mátxcơva.
– Đạo phía Nam do Chuẩn thống chế Phôn Runxtét (Von Rundsted) chỉ huy gồm 3 tập đoàn quân bộ binh, 1 tập đoàn xe tăng và 1 không đội từ vùng Liubơlin hướng tới Gitơmia, Kiép, sau đó tới Đônbát.
Chiến lược của Đức dựa trên yếu tố bất ngờ, tiến hành chọc thủng phòng tuyến Liên Xô ở nhiều chỗ bằng những múi nhọn thọc sâu xe tăng, chặn đứng sự rút lui của Hồng quân về phía Đông rồi tiến tới tiêu diệt Hồng quân bằng những trận hợp vây đồng thời ở nhiều điểm. Dự kiến của ”kế hoạch Bacbarôxa” sẽ ”đánh bại nước Nga bằng một cuộc chiến tranh chớp nhoáng trước khi kết thúc chiến tranh với Anh” (chỉ thị số 21 của Hítle). Hítle dự tính sẽ ”đánh quỵ nước Nga” trong vòng từ l tháng rưỡi đến 2 tháng.
Đi đôi với kế hoạch xâm lược về quân sự là kế hoạch cướp bóc tài nguyên và tàn sát người Nga một cách man rợ. Chỉ thị ngày 12-5-1941 của Bộ chỉ huy tối cao Đức bắt sĩ quan, binh lính Đức phải tuân theo:
“Hãy nhớ và thực hiện:
– Không có thần kinh, trái tim và sự thương xót – anh được chế tạo từ sắt, thép Đức…
– Hãy tiêu diệt trong mình mọi sự thương xót và đau khổ hãy giết bất kì người Nga nào và không được dừng lại, dù trước mặt anh là ông già hay phụ nữ, con gái hay con trai.
– Chúng ta phải bắt thế giới đầu hàng…anh là người Đức, và là người Đức phải tiêu diệt mọi sự sống cản trở con đường của anh”.
2. Cuộc chiến đấu quyết liệt để bảo vệ Mátxcơva và Xtalingrát
Trước lời kêu gọi của Đảng và Nhà nước. “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa lâm nguy!” ”Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nhân dân Liên Xô đã nhất tề đứng dậy, già trẻ, trai gái, triệu người như một, xông thẳng tới quân thù xâm lược. Trong những điều kiện rất khó khăn, bất lợi do yếu tố bất ngờ và so sánh lực lượng quân chênh lệch gây nên, quân và dân Liên Xô đã phải trải qua những cuộc chiến đấu mở đầu hết sức gay go, quyết liệt với những hi sinh và tổn thất nặng nề.
Trước tiên là những trận chiến đấu để bảo vệ biên giới của Tổ quốc, lúc này Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô không còn cách nào khác, ngoài việc thực hiện phòng ngự về chiến lược, nhằm những mục đích:
– “Kìm chân quân phát xít thật lâu trên các tuyến phòng ngự để tranh thủ thời gian nhiều nhất đưa các lực lượng từ phía sau tới và thành lập các lực lượng dự bị mới, điều động và triển khai các lực lượng đó trên các hướng quan trọng nhất.
– Gây cho địch những thiệt hại lớn nhất, làm cho chúng mỏi mệt vàhao hụt và do đó phần nào làm cân bằng so sánh lực lượng.
– Đảm bảo thực hiện các biện pháp của Đảng và Chính phủ trong việc di chuyển nhân dân và các mục tiêu công nghiệp vào phía sâu trong nước, tranh thủ thời gian để chuyển sản xuất công nghiệp sang phục vụ nhu cầu chiến tranh.
– Tích luỹ tối đa các lực lượng và chuyển sang phản công để đập tan toàn bộ kế hoạch chiến tranh của bọn Hítle”.
Những trận chiến đấu bảo vệ biên giới đã diễn ra hết sức dũng cảm, oanh liệt. Quân và dân Xô viết đã giữ từng tấc đất, từng ngôi nhà trong những điều kiện hết sức chênh lệch về quân số và vũ khí.
Mặc dù phải thực hiện những cuộc rút lui để bảo toàn lực lượng, thậm chí phải mở những ”đường máu” vượt qua những vòng vây của quân địch với tổn thất khá nặng nề, nhưng Hồng quân đã kìm chân được bước tiến của kẻ thù, làm cho chúng không thực hiện được ý đồ sẽ kết thúc cuộc chiến đấu ở biên giới trong vòng ”nửa giờ đồng hồ” như kế hoạch đã định. Nhờ đó, Hồng quân có thời gian và điều kiện để tổ chức lực lượng, củng cố tuyến phòng ngự theo chiều sâu.
Đến giữa tháng 7, mặt trận biên giới coi như kết thúc, và quân đội phát xít Đức
Tới tháng 9/1945, nước Nhật phát xít, đồng minh của Hitler, đã giày xéo Trung Hoa mênh mông được hai năm và tiếp tục gia tăng các hoạt động xâm lăng của mình ở châu Á. Cũng ở thời điểm đó, Hitler đã nuốt gọn nước Áo và Tiệp Khắc (nay là CH Czech và Slovakia). Tuy nhiên, người ta lại coi điểm khởi đầu cho cuộc chiến tranh thế giới thứ hai là ngày 1/9/1939, khi quân Đức tấn công vào Ba Lan, chứ không phải là ngày 3/9/1939, khi nước Anh và nước Pháp, đồng minh của Ba Lan, tuyên chiến với Berlin. Và ở thời điểm đó, lãnh tụ Liên Xô Iosif Stalin lại cho rằng không phải Berlin mà chính London cùng Paris là những người tuyên chiến.
Vì sao?
Trong cuộc trò chuyện với phóng viên Báo Nga “Komsomolskaya Pravda”, tiến sĩ khoa học lịch sử Oleg Butdnitsky, giám đốc Trung tâm Quốc tế lịch sử học và xã hội học chiến tranh thế giới thứ hai, đã lý giải về câu chuyện này.
Sự thay đổi định hướng tuyên truyền
PV: Trên báo Pravda ngày 1/12/1939, Stalin đã tuyên bố rằng không phải nước Đức đã tấn công Anh và Pháp mà là ngược lại.
TS Oleg Butdnitsky: Liên Xô khi đó có ký hiệp ước về không tấn công lẫn nhau với Đức, kèm theo cả kế hoạch bí mật phân chia châu Âu. Vì thế đường lối của Moskva sau khi ký hiệp ước này là: những người Anh và Pháp đã châm lửa chiến tranh. Theo định hướng đó là các bài viết trên báo chí Xôviết trong mùa thu và mùa đông năm 1939. Và phát biểu của Stalin cũng theo dòng thay đổi định hướng tuyên truyền này. Chính sách đối ngoại của Liên Xô trong nửa cuối năm 1939 đã có sự thay đổi đột ngột. Thu gọn lại những lời lẽ chống phát xít.
Vì sao?
– Stalin quan tâm tới việc để chiến tranh diễn ra càng ở xa biên giới của nước mình càng tốt. Hiện vẫn còn biên bản ghi lại nội dung cuộc gặp của người đứng đầu Quốc tế Cộng sản Dmitrov – ông này đã nhận được lời giải thích từ Stalin trước mặt Vyacheslav Molotov và Andrei Zhdanov về bản chất trong chính sách của quốc gia Xôviết. Stalin lý giải rằng, hiện đang diễn ra cuộc chiến đấu giữa hai nhóm các quốc gia tư bản chủ nghĩa , nên cứ mặc kệ họ tỉ thí với nhau.
Nhưng chính Hitler ngay buổi sáng 1/9/1939 đã đưa ra đề nghị hòa bình với nước Anh?
– Người Đức ở những giai đoạn sau đó đã không chỉ một lần đưa ra đề nghị hòa bình với nước Anh (có tới 7 lần tất cả!), trong đó có đề nghị hòa bình ở thời điểm mùa hè năm 1940, ngay lập tức sau khi đánh bại nước Pháp. Hitler hiểu rõ rằng, khi ấy, hạm đội Anh vẫn là lực lượng thống soái trên biển, không quân Anh cũng đang rất mạnh. Người Đức không khước từ cơ hội ký hòa ước cùng London với điều kiện Berlin sẽ được rảnh tay trên lục địa. Nhưng nước Anh đã không chấp nhận cuộc chơi này.
Thế vì sao London và Paris chỉ tới ngày 3-9-1939 mới tuyên chiến với Berlin?
– Phải, chính Anh và Pháp đã tuyên chiến với Đức – và đó là lúc khởi đầu chiến tranh thế giới thứ hai. Hai nước này hành động như thế theo đúng bổn phận của mình đối với Ba Lan – chả là trước đó một năm họ cũng đã có một thỏa thuận với Hitler ở Munich. Và họ đã hy vọng rằng khi đã hy sinh một phần Tiệp Khắc cho Đức thì họ sẽ giữ được hòa bình cho châu Âu. Thế nhưng chẳng bao lâu sau Hitler đã nuốt chửng toàn bộ Tiệp Khắc và mọi sự trở nên rõ ràng là trùm phát xít sẽ không dừng lại ở đó. Chính vì thế nên họ buộc phải tuyên chiến.
Quân đội Anh và Pháp liệu đã có thể vào Ba Lan mùa thu năm 1939 hay không?
– Họ cũng đã định giúp đỡ Ba Lan. Không rõ mọi việc đã diễn tiến ra sao nếu người Đức không đánh bại người Ba Lan nhanh tới như thế. Nhưng kiểu gì thì cũng không thể có hòa bình giữa Đức với Anh cùng Pháp.
Trò tháu cáy của trùm phát xít
Hitler từng thêm một lần kêu gọi hòa bình với London và Paris từ diễn đàn quốc hội Đức ở giữa tháng 9/1939?
– Kẻ xâm lược nào cũng muốn làm ra vẻ như mình chỉ là nạn nhân -“chúng tôi bắt buộc phải tấn công vì rằng…”. Hitler đã làm như thể mình là nạn nhân của việc người Ba Lan tấn công vào đài phát thanh của Đức và vin vào cớ đó để xâm lược Ba Lan. Y đã muốn tỏ ra mình là người bị hại.
Dù gì thì cũng thật kỳ quặc nếu coi Hitler như kẻ muốn kiến tạo hòa bình…
– Ở trong chính nước Đức thì Hitler trước khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra cũng đã được coi là vị “thủ tướng của hòa bình”. Trước sự kiện này thì y đã giải quyết được các vấn đề lãnh thổ gần như không phải đổ máu – tại Áo và tại khu vực Sudeten.
Hàng loạt nhà sử học Anh cho rằng, ở thời điểm tháng 9/1939, Hitler không hẳn đã không muốn một cuộc chiến tranh lớn mà chỉ đơn giản y chưa đủ sẵn sàng để tiến hành một cuộc chiến tranh như thế?
– Hitler đã không muốn có một cuộc chiến tranh lớn – trong bất luận trường hợp nào thì y cũng không muốn có một cuộc chiến tranh kéo dài. Y dự định không phải là một cuộc chiến tranh thế giới mà là hàng loạt những cuộc tấn công nhanh gọn. Để giải quyết những nhiệm vụ do y đặt ra – thỏa mãn cái ý tưởng rồ dại của y về một không gian sinh tồn cần thiết cho chủng tộc Aria. Và y cần được phục thù trước nỗi nhục Versailles (nơi ký hiệp ước đánh dấu thảm bại của Berlin trong chiến tranh thế giới thứ nhất) – thâu tóm không chỉ nước Pháp mà cả Ba Lan, nước đã lấy một phần những vùng lãnh thổ từ xưa vẫn thuộc về nước Đức. Nói rất rõ về điều này là chính sách kinh tế của Đức.
Tức là sao?
– Nước Đức ngay cả sau khi đã đánh bại Pháp vẫn không buồn đẩy nhanh sự phát triển công nghiệp quân sự. Hitler đã cho rằng y lúc đó đã đủ thực lực rồi và cuộc chiến với Liên Xô sẽ nhanh kết thúc thôi. Kết quả là nền công nghiệp quân sự Đức tới những năm 1943-1944 mới đạt được cực đỉnh của mình.
Binh lính Đức, lợi dụng trò khiêu khích của một nhóm sĩ quan SS trên khu vực biên giới Đức – Ba Lan, kéo đổ thanh chắn ở trạm kiểm soát biên giới ngày 1-9-1939 với nụ cười trên môi vì không thể ngờ tới những thảm cảnh mà họ phải gặp trong tương lai.
Ba Lan nhìn từ hai phía
Ba Lan vẫn được coi là đất nước đầu tiên phải làm nạn nhân của chiến tranh thế giới, nhưng lẽ nào không phải chính Warshawa không làm dấy lên làn sóng chống lại người Đức?
– Hiển nhiên là người Ba Lan đã không yêu thích người Đức. Mọi sự trầm trọng thêm vì người Đức lại đòi hỏi phải có những nhượng bộ về lãnh thổ. Đòi phải trao lại cảng Danzig – đối với người Ba Lan thì việc này quá ư là nhạy cảm. Họ đã không hề muốn phải quy lụy sự áp đặt của người Đức. Phải, họ đã đẩy những người Đức ra khỏi vùng lãnh thổ của mình một cách ồ ạt vì coi đó là “đạo quân thứ năm” của nước Đức. Tuy nhiên, khi Hitler bắt đầu chia rẽ Tiệp Khắc và Stalin đã chuẩn bị gửi quân sang giúp đỡ những người Czech thì Ba Lan lại không cho xe tăng Xôviết đi qua lãnh thổ của mình. Không phải vì họ không yêu người Nga hơn không yêu người Đức mà đơn giản là vì họ cũng muốn chiếm lấy một phần lãnh thổ Tiệp Khắc. Người Ba Lan rõ ràng cũng không đơn giản. Tuy nhiên, chắc họ sẽ không bao giờ tấn công nước Đức trước.
Đại sứ Ba Lan ngày 5/9/1939 ở Moskva đã yêu cầu thủ tướng Molotov giúp đỡ, trong đó có cả về quân sự …
– Trước ngày 23/8/1939, Liên Xô đã luôn giương cao ngọn cờ chống phát xít. Và nhiều người đã có cảm giác rằng Liên bang Xôviết rất không muốn ở bên cạnh biên giới của mình, thay vì một nước Ba Lan không quá mạnh lại là một nước Đức phát xít hùng hậu và hiếu chiến. Theo tư duy logic của người Ba Lan lúc đó, Liên Xô cần phải giúp đỡ Ba Lan. Tuy nhiên, người Ba Lan đã bị chậm chân. Hai tuần trước đó Moskva đã ký với Berlin hiệp ước về việc không tấn công lẫn nhau.
Nếu người Ba Lan không có những cam kết của thủ tướng Anh Chamberlain thì hẳn họ đã nhượng bộ Hitler? Và khi đó thì chiến tranh thế giới thứ hai đã không bắt đầu?
– Nghĩ như thế thì đơn giản quá. Người Ba Lan là một dân tộc kiêu hãnh. Mà nguy cơ chiến tranh cứ lớn dần lên. Ngay từ khi chưa ký thỏa thuận Munich thì nhiều người đã hiểu rõ sự vô ích của chính sách xoa dịu Hitler. Ngay cả ở trong nước Anh. Thậm chí ngay cả Churchill cũng lên tiếng phản đối chính sách đó. Ông ấy đã cho rằng, cần phải giải quyết vấn đề ngay từ khi nước Đức chưa trở nên mạnh hơn. Và những cam kết của nước Anh đối với Ba Lan, đó chỉ là khao khát muốn phục thù một phần vì “vị đắng Munich”. Ở thời điểm đó đã thấy rõ rằng, người Anh không thể nào bảo vệ nổi Ba Lan. Nước Anh khi đó không có lực lượng bộ binh đủ mạnh.
Người Mỹ tối trí
Thế còn nước Mỹ và tổng thống Roosevelt liệu có đã “xui nguyên giục bị” để Ba Lan, Anh và Pháp mau mau gây chiến với Hitler hay không? Hay là họ chỉ “tọa sơn quan hổ đấu”?
– Nước Mỹ đã không thể là kẻ đóng vai trò “xui nguyên giục bị” được, đơn giản vì họ không thể nào làm cho London, Paris và Berlin đụng độ lẫn nhau. Cả ba bên đó khi ấy đều có chính sách tự lập của mình. Nhưng Roosevelt khi ấy cũng đã hiểu rằng, cần phải giải quyết vấn đề Hitler. Chỉ có điều ông ấy đã không hiểu là phải giải quyết bằng cách nào. Tại Mỹ đã rất mạnh quan điểm cho rằng không cần can thiệp vào công việc ở châu Âu. Và Roosevelt ấy cũng bị bó chân bó tay. Năm 1939, ông ấy đã không có công cụ gì để ngăn chặn chiến tranh thế giới thứ hai: ở thời điểm đó nước Mỹ đã không có một quân đội mạnh, nền công nghiệp quân sự cũng chưa phát triển. Cho tới trước tháng 12/1941, trước sự kiện Trân Châu cảng, nước Mỹ chưa phải là một bên tham chiến.
Khi nào thì Stalin hiểu ra rằng, ông không thể nào tránh khỏi việc phải đụng độ với Hitler?
– Trước khi nước Đức tấn công Ba Lan thì điều này vẫn chưa hiện ra rõ ràng. Mặc dù đối với người Đức, cuộc tấn công Ba Lan đã không phải là một chuyến du hí nhẹ nhàng. Chỉ riêng ở Ba Lan họ đã mất tới 560 máy bay, điều khiến họ cảm thấy cực kỳ bất ngờ! Thế nhưng, tới cuộc chiến với Pháp thì người Đức đã chuẩn bị rất tốt. Họ chỉ cần đúng sáu tuần để đánh bại nước Pháp. Và trong hai năm 1939–1940, nước Đức đã trở thành cường quốc quân sự mạnh nhất châu Âu. Và khi ấy, tới tháng 6/1940, Stalin mới giật mình nhận ra rằng trên lục địa châu Âu, ông không chỉ phải một mình đối mặt với Hitler mà với cả nước Đức cùng một bầy đồng minh của họ..