Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp có gì mới?Tác động của nó đối với nền kinh tế Việt Nam như thế nào?
Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp có gì mới?Tác động của nó đối với nền kinh tế Việt Nam như thế nào?
Trả lời :
Sau CTTG1 Pháp tuy là nước thắng trận nhưng đất nước bị tàn phá nặng nề kinh tế kiệt quệ , Pháp bắt tay ngay vào công cuộc khai thác thuộc địa để bù đắp lại những hậu quả do CT gây ra
– Pháp tập trung khai thác trong nông nghiệp ,chú trọng vào đồn điền cao su
– công nghiệp : đẩy mạnh khai thác mỏ , mở một số cơ sở cn chế biến
– thương nghiệp : độc chiếm thị trường VN
– giao thông vận tải : đầu tư xây dựng đường sắt xuyên đông dương
=> hậu quả : làm cho nền kinh tế VN bị cột chặt vào nền kinh tế Pháp , tuy có làm kinh tế nước ta phát triển thêm 1 bậc nhưng về cơ bản vẫn là 1 nc nông nghiệp lạc hậu quèo quặp phụ thuộc vào Pháp
* Về kinh tế:
– Tích cực: Cuộc khai thác của Pháp làm xuất hiện nền công nghiệp thuộc địa mang yếu tố thực dân; thành thị theo hướng hiện đại ra đời; bước đầu làm xuất hiện nền kinh tế hàng hoá, tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế cũ bị phá vỡ.
– Tiêu cực: Một trong những mục tiêu của công cuộc khai thác thuộc địa là vơ vét sức người, sức của nhân dân Đông Dương. Do vậy:
+ Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cùng kiệt
+ Nông nghiệp dậm chân tại chỗ
+ Công nghiệp phát triển nhỏ giọt, thiếu hẳn công nghiệp nặng.
→ Nền kinh tế Việt Nam cơ bản vẫn là nền sản xuất nhỏ, lạc hậu và phụ thuộc.
* Về xã hội: Bên cạnh các giai cấp cũ không ngừng bị phân hoá, xã hội Việt Nam đã xuất hiện thêm những giai cấp, tầng lớp mới:
– Giai cấp địa chủ phong kiến đã đầu hàng, làm chỗ dựa, tay sai cho thực dân Pháp. Tuy nhiên, có một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước.
– Giai cấp nông dân, số lượng đông đảo, bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, họ sẵn sàng hưởng ứng, tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Một bộ phận nhỏ mất ruộng đất vào làm việc trong các hầm mỏ, đồn điền.
– Tầng lớp tư sản đã xuất hiện, có nguồn gốc từ các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, xưởng thủ công, chủ hãng buôn… bị kìm hãm, chèn ép. Vì thế lực kinh tế nhỏ bé, lệ thuộc nên họ không dám mạnh dạn đấu tranh, chỉ mong muốn có những thay đổi nhỏ để dễ bề làm ăn sinh sống.
– Tiểu tư sản thành thị, bao gồm chủ các xưởng thủ công nhỏ, cơ sở buôn bán nhỏ, viên chức cấp thấp và những người làm nghề tự do. Đó là những người có trình độ học vấn, nhạy bén với thời cuộc nên đã sớm giác ngộ và tích cực tham gia vào cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.
– Công nhân phần lớn xuất thân từ nông dân, làm việc trong các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, lương thấp nên đời sống khổ cực, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống giới chủ nhằm cải thiện đời sống.