cuộc hành trình của bác hồ như thế nào ạ

cuộc hành trình của bác hồ như thế nào ạ

0 bình luận về “cuộc hành trình của bác hồ như thế nào ạ”

  1. Thời còn thơ ấu Bác có tên là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890,  trong một gia đình nhà nho yêu nước ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

    Năm 11 tuổi, Nguyễn Sinh Cung chịu cảnh đau thương vĩnh viễn mất đi người mẹ yêu quý nhất và được cha đưa về sống tại quê nội (làng Sen) và đổi tên thành Nguyễn Tất Thành. Khi ấy, cha đã gửi Người sang học với thầy Vương Thúc Quý, thầy Quý đã dạy cho Nguyễn Tất Thành tư tưởng yêu nước thương dân và chí làm trai phải giúp ích cho đời. Mặt khác, nhà thầy Quý còn là nơi lui tới của các sĩ phu yêu nước trong vùng. Nhiều khi Nguyễn Tất Thành được thầy sai tiếp nước cho những vị khách đặc biệt ấy, nhờ đó cậu thanh niên yêu nước Tất Thành dần dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất nhà tan. Vấn đề liên quan đến sự sống còn của dân tộc đã ngày một thấm sâu vào trái tim và khối óc cậu thiếu niên Nguyễn Tất Thành. Ngay từ năm 15 tuổi Người đã tham gia công tác bí mật, làm liên lạc cho các chiến sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh…

    Sau này, khi lớn dần lên, Nguyễn Tất Thành  thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước phải sống trong ách đô hộ của thực dân Pháp. Trong suốt gần một thế kỷ bị đô hộ, nhiều phong trào khởi nghĩa giành độc lập do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo đã liên tục nổ ra song đều thất bại.

    Mặc dù rất ngưỡng mộ và kính trọng lòng yêu nước dũng cảm, kiên cường của các bậc tiền bối, nhưng với tấm lòng yêu nước sâu sắc, sự trăn trở về vận mệnh dân tộc, bằng sự hiểu biết của bản thân, Nguyễn Tất Thành sớm nhận ra con đường do những người đi trước mở ra sẽ không giải phóng được dân tộc mà cần thiết phải có con đường mới phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc; phải ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước độc lập phát triển như thế nào để trở về giúp đồng bào ta, đất nước ta thoát khỏi cảnh áp bức, nô lệ. Nung nấu quyết tâm đi tìm một con đường cứu nước mới, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã đi bộ từ Phan Thiết, vượt qua những khó khăn khắc nghiệt của thời tiết, nhiều khi lả đi vì đói, vì mệt, vì khát để tới Sài Gòn, tìm cơ hội thực hiện ý định cháy bỏng đó. Đây chính là bước ngoặt quan trọng, một sự lựa chọn lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng, mở đầu cho quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành.

    Với mục đích ra đi để xem người khác làm rồi trở về giúp đồng bào, mùa thu năm 1910 Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn, đến ngày 3.6.1911, Người xin được làm phụ bếp trên tàu La Touche Tréville. Khi đó chính là lúc Người đang dần thực hiện được những chuyến đi xa để thực hiện quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đây là tất cả những điều tôi hiểu”.

    Ngày 5 – 6 – 1911, tàu Amiran Latusơ Tơvêvin rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) đi Mácxây mang theo một người thanh niên Việt Nam vừa tròn 21 tuổi với cái tên “Văn Ba” ấp ủ đầy lòng yêu nước thương dân, ôm ấp một hoài bão lớn là tìm hiểu nền văn minh của thế giới, ra sức học hỏi để trở về giúp nước, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc lên đường sang Pháp.

    Từ đó Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ai Quốc trở thành người vô sản, làm bất cứ việc gì để sinh sống. Trong vòng 10 năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới. Bàn chân của Người đã từng in dấu trên nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt, Người đã dừng chân khảo sát khá lâu ở 3 nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp.

    Với những chuyến đi, Người tranh thủ mọi thời cơ để học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa, từ đó Người đã bổ sung được cho mình những kiến thức vô cùng phong phú với một tầm nhìn hết sức rộng lớn và bao quát. Từ đó Người đã rút ra kết luận là chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ cho giai cấp công nhân và nhân dân ở các nước chính quốc cũng như thuộc địa. Người sớm nhận thức được xu thế phát triển tất yếu của lịch sử và tính chất của thời đại mới mà Cách mạng Tháng Mười mở ra, Người xác định con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, khám phá ra chân lý lịch sử: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

    Người đã viết: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế III”.

    Trong thời gian từ năm 1921 đến năm 1930, Người ra sức truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào các phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Kách mệnh”, đặc biệt là việc xuất bản tờ báo Thanh niên ra ngày 21-6-1925, Người đã chuẩn bị về đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Cũng trong thời gian này, Người tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ với việc Người lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ và gửi đi học ở Liên Xô … Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 03-02-1930, dưới sự chủ trì của Đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản đã nhất trí thành lập một đảng thống nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

    Sau 30 năm tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, giành lại chính quyền về tay nhân dân, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiền ở Đông Nam châu Á, mở ra kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập và dân chủ. Từ đây dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dân ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến thần thánh đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giải phòng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh .

    Có được cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay, mỗi chúng ta đều khắc sâu trong tim niềm biết ơn vô hạn với những công lao và hi sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua trong suốt 30 năm người bôn ba nơi đất khách quê người. Đó chính là mốc son quan trọng và thiêng liêng trong lịch sử giải phóng dân tộc Việt Nam. Toàn quân, toàn dân ta nguyện vững bước theo con đường cách mạng mà Đảng và Bác đã chọn, quyết tâm đưa đất nước ta trở thành đất nước giầu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh để tự tin “sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác hằng mong muốn.

    Bình luận

Viết một bình luận