Đề bài: Có ý kiến cho răng:”văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả”.Em hiểu ý kiến trên như thế nào?Từ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật làm sáng tỏ điều đó.
Không chép mạng
Đề bài: Có ý kiến cho răng:”văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả”.Em hiểu ý kiến trên như thế nào?Từ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật làm sáng tỏ điều đó.
Không chép mạng
Nhà văn R.Gamzatep từng nhận định: “Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo tới đâu nó cũng nhất thiết phải đẹp, không chỉ đơn giản là đẹp, mà còn phải đẹp một cách riêng”. Thật đúng như vậy, văn chương luôn đòi hỏi những người nghệ sỹ biết đào sâu, tìm tòi, khơi những điều chưa ai khơi, và sáng tạo những điều chưa ai có. Giống như ai đó từng nói: “Văn chương không có gì riêng, sẽ không có gì cả”. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có thể nói là một minh chứng xác thực cho cái riêng trong văn chương.
Ý kiến trên là một cái nhìn hoàn toàn đúng đắn về văn chương. Nó đã khẳng định văn chương là một lĩnh vực độc đáo mới lạ. Mỗi tác phẩm văn chương phải là một thế giới nghệ thuật riêng, một chân trời riêng, một lối đi riêng. Viên Mai từng nói ”Làm người không nên có cái tôi, nhưng làm thơ thì phải có cái tôi”. Nhà văn có phong cách thì mới được người đọc chấp nhận và yêu mến. Phong cách càng độc đáo thì sức hấp dẫn càng lớn. Và điều mới mẻ độc đáo là điều kiện tồn tại của tác phẩm văn chương. Tác phẩm văn chương không có gì mới mẻ sẽ khó được người đọc chấp nhận. Hay nhà văn có phong cách mờ nhạt, không có dấu ấn riêng sẽ dễ bị người ta lãng quên. Cái riêng ấy thường được thể hiện qua giọng điệu, cách nhìn của nhà văn, yếu tố độc đáo về nội dung hay nghệ thuật, cách sử dụng các biện pháp tu từ… Nếu lấy điều đó làm thước đo thì nhà thơ Phạm Tiến Duật đã thành công khi thể hiện cái tôi rất riêng của mình qua “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Tác phẩm sáng tác năm 1969, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ khi nhà thơ tham gia chiến đấu tại chiến trường Trường Sơn, trước sự phá hoại điên cuồng của đế quốc Mỹ vào nước ta. Có thể khẳng định, tác phẩm mang cái riêng rất độc đáo và đặc sắc.
Trước hết cái riêng được thể hiện qua những chiếc xe không kính. Hình ảnh xe không kính vô cùng quen thuộc nơi chiến trường, nhưng chỉ mình Phạm Tiến Duật “chộp” được cái chất thơ ấy để cho vào đề tài văn chương của mình. Phạm Tiến Duật đã đưa hình ảnh không thơ chút nào, hình ảnh những chiếc xe vận tải trần trụi đến chân thực với những từ ngữ mộc mạc giản dị song hành cùng điệp ngữ “không có” cứ vương vấn trong tim.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Điệp từ “không” ấy thôi mà người đọc, người nghe cảm nhận được cái ngang tàng của tứ thơ này. Những chiếc xe không kính không chỉ là chứng tích cho thấy sự tàn phá ác liệt của chiến tranh mà còn là minh chứng hào hùng vẻ vang của các chiến sỹ cách mạng.
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Chiếc xe được miêu tả bằng điệp từ tăng cấp nhấn mạnh sự biến dạng của chiếc xe. Càng vào sâu trong chiến trường, xe càng méo mó, xuống cấp. Quả thực hình ảnh thơ là chiếc xe không kính, đây là cái rất riêng của tác giả.
Từ hình ảnh “xe không kính”, Phạm Tiến Duật cũng xây dựng hình ảnh người lính vô cùng độc đáo trên nền chiếc xe ấy. Từ sự khó khăn, gian khổ, vẻ đẹp của người lính trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ càng được nổi bật, càng được tỏa sáng “lửa thử vàng, gian lao thử sức”. Họ có đời sống vật chất khá hơn người lính của thời đại trước. Họ đều là những người trẻ tuổi có xuất thân từ tầng lớp trí thức và có sự dũng cảm, ung dung, lạc quan:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng,
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Đảo ngữ “ung dung”, điệp ngữ nhìn thấy nhấn mạnh tư thế ung dung, cái nhìn đầy tự chủ, bất khuất, không thẹn với trời đất của người lính. Xe không kính biết bao gian khổ, người lính vẫn vươn lên bằng sự kiên cường, lạc quan.
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười haha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”
Cấu trúc “không có kính ừ thì… chưa cần” lặp lại và chi tiết “phì phèo châm điếu thuốc” – “Nhìn nhau mặt lấm cười haha”, “lái trăm cây số nữa” đã cho thấy sự ngang tàng, bất chấp gian khổ của người lính. Lời thơ xô bồ, phóng khoáng. Thực tế, gió, bụi, mưa gây rất nhiều khó khăn cho người chiến sĩ cách mạng, đặc biệt khi ngồi trên chiếc xe không kính, nhưng người lính vẫn lạc quan, hiên ngang, vượt lên mọi gian khổ ấy. Họ chấp nhận đó như một điều tất yếu, lạc quan, gắn bó với đồng đội. Cả bài thơ lấp lánh ánh cười ”ha ha” sảng khoái, tự hào. Đó chính là cái riêng đích thực của thơ ca Phạm Tiến Duật. Bên cạnh đó, hình ảnh người lính trong thơ ông còn có tính đồng đội, đồng chí son sắc, gắn bó. Xe không kính, cả đoàn xe có thể bắt tay qua cửa kính vỡ mà không cần mở nó ra, thật thú vị. Tình đồng đội hóa tình gia đình. Ăn thì phải nấu bếp bí mật là bếp Hoàng Cầm, ngủ thỉ võng mắc ngay trên đường xe chạy chông chênh, nhưng có hề chi, người lính lại đi, lại đi, bầu trời vẫn xanh thêm. Và động lực mạnh mẽ sâu xa tạo lên sức mạnh tinh thần lớn lao, bất chấp gian lao, hiểm nguy đó chính là vì miền Nam ruột thịt, quyết tâm đánh đuổi đế quốc Mỹ để thống nhất đất nước, Bắc Nam về chung một mối nghĩa tình. Chính vì lẽ đó, người lính cụ Hồ vẫn đi mặc cho gian khổ, thiếu thốn thế nào.
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Hình ảnh hoán dụ, trái tim tượng trưng cho lý tưởng cách mạng, niềm tin, tinh thần yêu nước. Cách lí giải của nhà thơ rất bất ngờ và chí lí: trái tim cầm lái. Dù chiếc xe méo mó biến dạng bao nhiêu cũng không quan trọng, điều quan trọng ở đây là vẫn có một trái tim rực lửa đang trong xe, linh hồn của chiếc xe, người lính trẻ nhiệt tình với lòng yêu nước lớn lao, xe cứ thế mà băng qua bao chiến trường, bao trận địa vì sự nghiệp vĩ đại của dân tộc.
Hơn thế, đọc bài thơ, ta còn cảm thấy cái riêng của Phạm Tiến Duật trong việc sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật. Đầu tiên là ở giọng thơ, Phạm Tiến Duật có cách nói ngang tàng, có cả chất nghịch ngợm, phù hợp với đối tượng miêu tả, giọng điệu ấy được tạo lên từ kiểu câu đa dạng, khi giải thích, khi tự sự. Vì thế, lời thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. Ngôn ngữ cũng là một cái riêng. Bài thơ có ngôn ngữ giản dị, ngôn ngữ chất sống – đời sống chiến trường, khiến cho lời thơ gần với văn xuôi, nhưng vẫn đầy thú vị, có chất thơ. Bên cạnh đó còn là cấu trúc đối lập tương phản giữa cái “không“ và “có“. Thể thơ tự do linh hoạt, bảy chữ và tám chữ, làm cho bài thơ gắn với tự nhiên và rất sinh động.
Có một bài ca không bao giờ quên, và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính“ là một trong số bài ca chúng ta không thể quên đó. Bằng cái riêng trong nội dung và nghệ thuật, Phạm Tiến Duật đưa thơ của mình gần tới người đọc, mặc dù có chất riêng, nhưng thơ của Phạm Tiến Duật cũng có những cái chung trong đề tài hình ảnh người lính trong kháng chiến khiến cho bài thơ không hề lạc lõng. Quả thật, Phạm Tiến Duật đã góp phần vào đề tài thơ văn một bài thơ rất hay.
Gấp lại trang thơ của Phạm Tiến Duật, ta còn âm hưởng những cái riêng mà tác giả gửi đến. Bài thơ đúng là một khám phá đáng trân trọng của tác giả, mở đầu cho các nhà thơ khác có cơ hội học hỏi. Mọi người với vai trò là một nhà văn nhà thơ cũng cần cái riêng cho riêng mình.
@dieuthu_01