Đồng bằng sông Cửu Long Kinh tế , xã hội Khó khăn : Dân số Trình độ Có sở hạ tầng Thuận lợi : dân cư lao động Có sở hạ tầng

By Amaya

Đồng bằng sông Cửu Long
Kinh tế , xã hội
Khó khăn : Dân số
Trình độ
Có sở hạ tầng
Thuận lợi : dân cư lao động
Có sở hạ tầng

0 bình luận về “Đồng bằng sông Cửu Long Kinh tế , xã hội Khó khăn : Dân số Trình độ Có sở hạ tầng Thuận lợi : dân cư lao động Có sở hạ tầng”

  1. Đặc điểm xã hội:

    + Đông dân, mật độ dân số cao.

    + Thành phần dân tộc: người Kinh, người Khơ-me, người Chăm, người Hoa.

    + Trình độ đô thị hóa và trình độ dân trí thấp.

    Khó khăn, Thuận lợi:

    Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, 6 tháng đầu năm 2019, GRDP của vùng đạt khoảng 7,5%, cao hơn bình quân cả nước; kim ngạch xuất khẩu đạt 8.844 triệu USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2018.

    Thu ngân sách nhà nước cao nhất từ trước tới nay, khoảng 54.803 nghìn tỷ đồng, đạt 64% dự toán Trung ương giao. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt khá với 110 dự án mới, số vốn đăng ký là 975 triệu USD.

    Dự kiến năm 2019 có 11/14 chỉ tiêu đạt và vượt so với Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các tỉnh đề ra. Về tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công, đến 30/7/2019, giải ngân toàn vùng là gần 17.100 tỷ đồng trên tổng số gần 46.100 tỷ đồng, đạt 38,59%, cao hơn mức bình quân chung cả nước.
    Bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế – xã hội tại các vùng vẫn có những hạn chế, khó khăn. Theo đó, vùng Đông Nam Bộ tuy có số doanh nghiệp đăng ký mới đứng đầu cả nước, nhưng về quy mô vôn đăng ký bình quân còn thấp (14,1 tỷ đồng/doanh nghiệp), chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ; số lượng doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh năm 2019 dự kiến tăng 9,9% so với năm 2018.

    Ngoài ra, tình trạng quá tải giao thông đô thị và trên một số tuyến đường bộ, hàng không, cảng biển, đường thủy nội địa. Đây chính là điểm nghẽn kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội trong vùng nếu không sớm được cải thiện.
    Trong khi đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long tuy nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, nhưng phát triển theo hướng quy mô lớn còn ít, chủ yếu nhỏ lẻ, phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên, mùa vụ. Thị trường tiêu thụ nông sản thiếu bền vững, chưa đủ đáp ứng được sức sản xuất lớn và đà gia tăng của nền nông nghiệp hàng hóa.

    Ngoài ra, kết cấu hạ tầng yếu kém, nhất là giao thông đường bộ nội vùng cũng như kết nối với các trung tâm phát triển chưa đồng bộ; các cửa ngõ lưu thông hàng hóa chủ yếu vẫn dựa vào các phương tiện vận tải quy mô nhỏ, giản đơn. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông khu vực vẫn là những bất cập còn tồn tại, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của vùng…

    Tài nguyên:

    Đồng bằng sông Cửu Long không giàu khoáng sản. Khoáng sản chủ yếu là than bùn và đá vôi. Ngoài ra đồng bằng còn có các khoáng sản vật liệu xây dựng như sét gạch ngói, cát sỏi….

    Tài nguyên rừng cũng giữ những vai trò quan trọng, đặc biệt là hệ thống rừng ngập mặn ven biển lớn nhất Việt Nam, trong đó hệ thống rừng ngập mặn Mũi Cà Mau được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới, bên cạnh đó là những cánh rừng tràm ở U Minh Cà Mau, Đồng Tháp với một hệ thống sinh học vô cùng đa dạng.

    Nông nghiệp:

    Phong cảnh làng quê tại vùng đồng bằng sông Cửu Long với mái nhà rơm làm chuồng bòCau được trồng bên đường ở phường Thường Thạnh, thuộc quận Cái Răng, thành phố Cần ThơMột cánh đồng ở xã Phú Thuận (Thoại Sơn, An Giang, Việt Nam) vào mùa nước nổi.

    Mặc dù diện tích canh tác nông nghiệp và thủy sản chưa tới 30% của cả nước nhưng miền Tây đóng góp hơn 50% diện tích lúa, 71% diện tích nuôi trồng thủy sản, 30% giá trị sản xuất nông nghiệp và 54% sản lượng thủy sản của cả nước. Lúa trồng nhiều nhất ở các tỉnh An Giang, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang. Diện tích và sản lượng thu hoạch chiếm hơn 50% so với cả nước. Bình quân lương thực đầu người gấp 2,3 lần so với lương thực trung bình cả nước. Nhờ vậy nên Đồng bằng sông Cửu Long là nơi xuất khẩu gạo chủ lực của cả đất nước. Ngoài ra cây ăn quả còn là đặc sản nổi tiếng của vùng, với sự đa dạng về số lượng, cũng như chất lượng ngày càng được nâng cao

    Nghề nuôi vịt đàn phát triển mạnh, nuôi nhiều ở Đồng Tháp, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và Sóc Trăng.

    Thủy sản:

    Sản lượng thủy sản chiếm 50% cả nước, nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang và An Giang. Kiên Giang là tỉnh có sản lượng thủy sản săn bắt nhiều nhất, 239.219 tấn thủy sản (năm 2000). An Giang là tỉnh nuôi trồng thủy sản lớn nhất vùng với sản lượng 80.000 tấn thủy sản (năm 2000). Nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản đang phát triển mạnh, theo quy mô công nghiệp.

    Công nghiệp:

    Ngành công nghiệp phát triển rất thấp, chủ yếu là ngành chế biến lượng thực. Cần Thơ là trung tâm công nghiệp của cả vùng bao gồm các ngành nhiệt điện, chế biến lương thực, luyện kim đen, cơ khí, hóa chất, dệt may và vật liệu xây dựng.

    Dịch vụ:

    Khu vực dịch vụ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm các ngành chủ yếu: xuất nhập khẩu, vận tải thủy và du lịch. Xuất khẩu gạo chiếm 80% của cả nước. Giao thông đường thủy giữ vai trò quan trọng nhất.

    Du lịch biển chủ yếu ở Kiên Giang với thắng cảnh đẹp ở Hà Tiên, Phú Quốc.

    Du lịch tâm linh với nhiều chùa đẹp ở Châu Đốc, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh.

    Du lịch sinh thái bắt đầu khởi sắc như du lịch trên sông nước, vườn, khám phá các cù lao. Du lịch bền vững bước đầu hình thành với sự thành công của khu nghỉ dưỡng bền vững Mekong Lodge tại Tiền Giang và nhiều địa phương khác như Bến Tre, Vĩnh Long, Cà Mau, Đồng Tháp. Tuy nhiên chất lượng và sức cạnh tranh của các khu du lịch không đồng đều và còn nhiều hạn chế.

    Biện pháp: Để phát triển kinh tế vùng trước hết chú ý việc nâng cao mặt bằng dân trí, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn hoàn thiện, phát triển đô thị.

    Tham khảo nha bạn.

    Trả lời

Viết một bình luận