Dựa vào nội dung bài 9 (trang 32 SGK 7) trình bày vài nét về nông nghiệp thời tiền lê
0 bình luận về “Dựa vào nội dung bài 9 (trang 32 SGK 7) trình bày vài nét về nông nghiệp thời tiền lê”
Tình hình nông nghiệp nước ta thời Đinh- Tiền Lê ngày càng ổn định và bước đầu phát triển:
– Mùa lúa các năm 987,989 đều tươi tốt.
– Nghề trồng dâu, nuôi tằm được khuyến khích.
Có được sự ổn định và phát triển đó là do chính sách khuyến khích trong nông nghiệp của nhà vua: chú trọng công tác thủy lợi, có biện pháp khuyến nông.
Nông nghiệp vẫn là nền tảng cơ bản của nền kinh tế đương thời. Phần lớn ruộng đất ở làng xã phụ thuộc vào triều đình, do triều đình sở hữu[1].
Các loại ruộng đất thời Tiền Lê gồm có:
Ruộng tịch (ruộng vua): như Bố Hải Khẩu (Thái Bình), Đỗ Động (Bắc Giang), Đọi Sơn (Hà Nam). Vào đầu xuân vua thực hiện lễ cấy tịch điền để động viên, khuyến khích nhân dân sản xuất nông nghiệp, gọi là lễ tịch điền; lần đầu tiên vào năm 987 Lê Đại Hành đã thực hiện việc này[2][3]. Sử sách ghi nhận đó là lễ tịch điền đầu tiên mà một vị vua Việt Nam thân hành đi cày[4]. Triều đình sử dụng người tù tội hoặc nông dân làm nghĩa vụ lao dịch cày cấy, toàn bộ sản lượng thu hoạch về kho của triều đình[5].
Ruộng phân phong: Về chính sách phân phong ruộng đất, nhà Tiền Lê cơ bản kế thừa nhà Đinh. Chế độ phân phong cho các công thần, quan lại chỉ là tạm thời, để hưởng thuế, không trở thành ruộng đất tư hữu và phải trả lại triều đình sau khi được người phong qua đời[6]. Ngoài một số công thần, vua Lê Đại Hành còn ban đất cho các hoàng tử làm thực ấp (tất cả 11 người).
Ruộng chùa: Nhà chùa cũng sở hữu một số đất đai[1].
Ruộng tư: Ruộng đất tư nhân do một số trang trại hình thành từ thời Bắc thuộc được triều đình trung ương cho phép tồn tại, thuộc quyền sở hữu tư nhân và được phép mua bán.
Ngoài ra, nhà Tiền Lê còn khuyến khích dân các nơi khai khẩn đất hoang để lập làng, mở rộng diện tích đất công[1]. Những ruộng đất ở làng xã và ruộng mới hình thành do khai hoang, nhân dân theo tập tục chia ruộng đều cho nhau cày cấy và nộp thuế cho triều đình[5].
Sử sách ghi nhận những thành quả phát triển nông nghiệp thời Tiền Lê, mùa mang tốt vào các năm 987, 989
Tình hình nông nghiệp nước ta thời Đinh- Tiền Lê ngày càng ổn định và bước đầu phát triển:
– Mùa lúa các năm 987,989 đều tươi tốt.
– Nghề trồng dâu, nuôi tằm được khuyến khích.
Có được sự ổn định và phát triển đó là do chính sách khuyến khích trong nông nghiệp của nhà vua: chú trọng công tác thủy lợi, có biện pháp khuyến nông.
Nông nghiệp vẫn là nền tảng cơ bản của nền kinh tế đương thời. Phần lớn ruộng đất ở làng xã phụ thuộc vào triều đình, do triều đình sở hữu[1].
Các loại ruộng đất thời Tiền Lê gồm có:
Ngoài ra, nhà Tiền Lê còn khuyến khích dân các nơi khai khẩn đất hoang để lập làng, mở rộng diện tích đất công[1]. Những ruộng đất ở làng xã và ruộng mới hình thành do khai hoang, nhân dân theo tập tục chia ruộng đều cho nhau cày cấy và nộp thuế cho triều đình[5].
Sử sách ghi nhận những thành quả phát triển nông nghiệp thời Tiền Lê, mùa mang tốt vào các năm 987, 989