Em hiểu gì về Chiếu dời đô ( Thiên đô chiếu ) của Lý Công Uẩn
Mình đang cần gấp ạ
0 bình luận về “Em hiểu gì về Chiếu dời đô ( Thiên đô chiếu ) của Lý Công Uẩn Mình đang cần gấp ạ”
Có ý kiến cho rằngChiếu dời đôđã thể hiện những ý tứ sâu sắc, tầm nhìn thời đại của một vị vuaĐại Cồ Việt1000 năm về trước, khi ông chọnĐại Lalàm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kỳ cho muôn đời sau. Bản chiếu nêu bật được vai tròkinh đô Thăng Longxứng đáng là trung tâmchính trị,kinh tế,văn hóacủaquốc gia. Thời gian sau đó,Thăng Longvẫn làkinh đôcủa cácnhà Trần,nhà Hậu Lê,nhà Mạc,Lê trung hưngvà đang làthủ đôcủa nướcCộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Thăng Longthực sự là “nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.[11]
Nhận xét về kinh đôThăng Long, sử giaNgô Thì SĩtrongĐại Việt sử ký tiền biênviết:
“Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền, hình thểĐại Việtkhông nơi nào hơn được nơi này.”
Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng chiếu dời đô lại nổi bật những nhược điểm khiến nó không thể trở thành một áng văn tiêu biểu của dân tộcViệt Nam, thể hiện ở các yếu tố sau:
Tinh thần dân tộc: làvăn bảnkhai sinh ra kinh đôThăng LongnhưngChiếu dời đôkhông đề cập đến truyền thống đấu tranh giànhđộc lậpdân tộc mà các triềuvua Việt Namtrước đó đã gây dựng. Bản chiếu cũng không nêu vai trò của kinh đôHoa Lưvà cáckinh đôtrước đó nhưPhong Châu,Mê Linh,Long Biên. Việc này có thể lý giải do đây là dời đô, chứ không phải đấu tranh giữ nước. Lúc này đất nước cần thái bình, trăm dân cần no ấm, vậy thì vai trò củakinh đô Hoa Lưđã hết. Đồng thời ta thấy vai trò của nhữngPhong Châu,Mê Linh,Long Biênđều là trấn giữ đất nước khỏi giặc thù, tương tựHoa Lư. Trong bản chiếu,Lý Thái Tổlấy việc làm của cáctriều đạicường quyền đế quốcTrung Hoađể noi theo. Vua gọi Đô hộCao Biềnlà “Cao Vương”, gọi thànhĐại Lalà “đô cũ”. Điều này khiến chiếu dời đô chưa toát lên đượctinh thần dân tộcchủ đạo mà các áng văn khác nhưNam quốc sơn hà(“Nam quốc sơn hà Nam đế cư“) vàBình Ngô đại cáo(“từ… Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập“) đã có.Chiếu dời đôchỉ có ý nghĩa trong nội bộquốc giamà không thể ảnh hưởng ở tầmquốc tế.
Khát vọng độc lập: Các nhà nghiên cứu đều cho rằng, việc lập đô của cácnhà Đinhvànhà Tiền Lêlà phù hợp với điều kiện lịch sử bấy giờ, không phải là tự theo ý riêng, thiển cận.[12]Trong bối cảnh vừa thoát khỏithời Bắc thuộc, chính quyền còn non trẻ,kinh đô Cổ Loakhông còn trấn áp được loạn cát cứ thì việc lập đô ởHoa Lưtrở lên lợi hại hơn cả.Người Việtđã xây dựngkinh đô Hoa Lưcủa riêng mình mà không theo một hình mẫu nào củaTrung Hoa.[13]. Sự kiện banChiếu dời đôvừa khẳng định vừa phủ định vai trò củakinh đô Hoa Lư. Tuy nhiên, việc vuaLý Thái Tổchê tráchnhà Tiền Lêcó thể hiểu được, vì khiLý Công Uẩnlên ngôi,nhà Tiền Lêđã suy và không còn là tấm gương nên noi theo, nói tới nữa. Sự xuất hiện củaChiếu dời đôlà bằng chứng cho thấy đất nước đã phát triển sang trang mới. Là mốc son đánh dấu lịch sử hình thànhthủ đô Hà NộicủaViệt Namtrên cơ sở, nền tảngkinh đô Hoa Lư.
Màu sắc dị đoan, phong thủy:Chiếu dời đôđược viết với nội dung mang đượm màu sắc đầy dị đoan,phong thủy. Tuy nhiên, nhận định này không hợp lý vì trong bất kỳ lần dời đô nào ở nước ta cũng phải dựa theo thếphong thủymà định, ví dụ nhưVua Hùngtìm đất đóng đô dựng nước. Vàphong thủykhông liên quan đến quan điểm dị đoan,mê tín; thực chất đây là mộtbộ môn khoa họcvềmôi trường sống, một nhánh củakiến trúc. Chẳng qua do cách giải thích của các thầy phong thủy nên nó bị đánh đồng vớimê tín dị đoan.[14]
Không phù hợp với đạo lý dân tộc:Lý Thái Tổám chỉ các triều vuanhà Đinh,nhà Tiền Lêtự theo ý riêng mình mà vận mệnh ngắn ngủi, trong khi chính ông là người thừa hưởng nền tảng độc lập mà các triều đại này để lại. Quan điểm này không phù hợp với đạo lýUống nước nhớ nguồncủangười Việt. Thực tế, rất nhiềuanh hùngđã giànhđộc lậpnhưHai Bà Trưng,Lý Bí,Ngô Quyền,… màtriều đạido họ gây dựng tồn tại rất ngắn nhưnglịch sửluôn đánh giá công bằng. Bản chiếu dời đô cũng không thấy sự xuất hiện của vịvua Việt Namnào được vua Lý nêu tới. Nhưng như đã biết, vốnnhà Tiền Lêđã suy yếu, dân chúng oán thán, việc Lý Công Uẩn mượn cớnhà Tiền Lêmệnh không dài, cũng chỉ là thuận theo lòng dân mà thôi.
Việc xuất hiện bài chiếu có ý nghĩa rất nhiều đối với lịch sửHoa LưvàThăng Long. Nó làm nên tính chất trọng đại của hành trình 1000 năm lịch sử. Đó là một áng văn của thời khắc lịch sử từHoa Lưđến Thăng Long – một bước ngoặt hào hùng của dân tộcViệt Nam.[15]
Thiên đô chiếu tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ XV trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội).
Có ý kiến cho rằng Chiếu dời đô đã thể hiện những ý tứ sâu sắc, tầm nhìn thời đại của một vị vua Đại Cồ Việt 1000 năm về trước, khi ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kỳ cho muôn đời sau. Bản chiếu nêu bật được vai trò kinh đô Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của quốc gia. Thời gian sau đó, Thăng Long vẫn là kinh đô của các nhà Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, Lê trung hưng và đang là thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thăng Long thực sự là “nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.[11]
Nhận xét về kinh đô Thăng Long, sử gia Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên viết:
“Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền, hình thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này.”
Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng chiếu dời đô lại nổi bật những nhược điểm khiến nó không thể trở thành một áng văn tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, thể hiện ở các yếu tố sau:
Việc xuất hiện bài chiếu có ý nghĩa rất nhiều đối với lịch sử Hoa Lư và Thăng Long. Nó làm nên tính chất trọng đại của hành trình 1000 năm lịch sử. Đó là một áng văn của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long – một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.[15]
Thiên đô chiếu tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ XV trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội).