Giúp em lich sử nâng cao với ạ: tóm tắt chiến lược diễm biến hoà bình và bạo loạn lật đổ và cácc thế lực thù địch
0 bình luận về “Giúp em lich sử nâng cao với ạ: tóm tắt chiến lược diễm biến hoà bình và bạo loạn lật đổ và cácc thế lực thù địch”
* Thứ nhất, “diễn biến hoà bình”: là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, đứng đầu là Mĩ nhằm lật đổ chế độ chính trị – xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự.
Tác động của chiến lược diễn biến hòa bình là một trong những nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.
* Thứ hai, bạo loạn lật đổ: là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức của lực lượng phản động, gây rối loạn trật tự an ninh xã hội, nhằm lật đổ chính quyền tiến bộ (cách mạng) thiết lập chính quyền phản động ở địa phương hoặc trung ương. Bạo loạn lật đổ là một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong chiến lược diễn biến hòa bình để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
* Thứ ba, tóm tắt quá trình hình thành phát triển chiến lược diễn biến hòa bình:
Ban đầu, chủ nghĩa đế quốc sử dụng nó như là một phương thức, thủ đoạn luôn gắn với chiến lược quân sự, hỗ trợ cho chiến lược quân sự, dần dần phát triển thành một chiến lược hoàn chỉnh trong chiến lược phản cách mạng toàn cầu của chúng. Quá trình đó được diễn ra sơ lược như sau:
– Những năm 40 – 50 của thế kỉ XX:
+ Ngày 22-12-1946, Mĩ đề kế hoạch chống Liên Xô toàn diện: bao vây quân sự; phong toả kinh tế; lật đổ chính trị; có thể dùng vũ lực can thiệp.
+ Mĩ còn đề ra chiến tranh tâm lí tổng lực để chống lại Liên Xô.
– Những năm 60 Tổng thống Kennơđi đưa ra chiến lược hoà bình, với chính sách “mũi tên và cành ô lưu”. Từ đây diễn biến hòa bình bước đầu trở thành chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và luôn đi bên cạnh sức mạnh quân sự.
– Những năm 70, Tổng thống Nich-xơn triệt để sử dụng chính sách ngoại giao “cây gậy và củ cà rốt”. Với chính sách này, Mĩ vừa đe doạ bằng sức mạnh quân sự, vừa mua chuộc bằng lợi ích kinh tế nhằm khuất phục các nước, nhất là các nước chậm phát triển.
– Những năm 80, lúc này các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện cải tổ, cải cách, đổi mới, đây là một chủ trương đúng đắn nhằm làm cho xã hội chủ nghĩa phát triển. Nhưng quá trình thực hiện, có một số sai lầm, kẻ địch lợi dụng và chúng dùng diễn biến hòa bình ráo riết tiến công nhằm làm các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ.
=> Tóm lại diễn biến hòa bình có một quá trình hình thành phát triển khá rõ nét. Quá trình đó theo một trình tự, lúc đầu là một phương thức, một thủ đoạn dần phát triển thành một chiến lược hoàn chỉnh nằm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ. Chiến lược đó luôn gắn với chiến lược quân sự của Mĩ.
* Thứ nhất, “diễn biến hoà bình”: là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, đứng đầu là Mĩ nhằm lật đổ chế độ chính trị – xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự.
Tác động của chiến lược diễn biến hòa bình là một trong những nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.
* Thứ hai, bạo loạn lật đổ: là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức của lực lượng phản động, gây rối loạn trật tự an ninh xã hội, nhằm lật đổ chính quyền tiến bộ (cách mạng) thiết lập chính quyền phản động ở địa phương hoặc trung ương. Bạo loạn lật đổ là một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong chiến lược diễn biến hòa bình để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
* Thứ ba, tóm tắt quá trình hình thành phát triển chiến lược diễn biến hòa bình:
Ban đầu, chủ nghĩa đế quốc sử dụng nó như là một phương thức, thủ đoạn luôn gắn với chiến lược quân sự, hỗ trợ cho chiến lược quân sự, dần dần phát triển thành một chiến lược hoàn chỉnh trong chiến lược phản cách mạng toàn cầu của chúng. Quá trình đó được diễn ra sơ lược như sau:
– Những năm 40 – 50 của thế kỉ XX:
+ Ngày 22-12-1946, Mĩ đề kế hoạch chống Liên Xô toàn diện: bao vây quân sự; phong toả kinh tế; lật đổ chính trị; có thể dùng vũ lực can thiệp.
+ Mĩ còn đề ra chiến tranh tâm lí tổng lực để chống lại Liên Xô.
– Những năm 60 Tổng thống Kennơđi đưa ra chiến lược hoà bình, với chính sách “mũi tên và cành ô lưu”. Từ đây diễn biến hòa bình bước đầu trở thành chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và luôn đi bên cạnh sức mạnh quân sự.
– Những năm 70, Tổng thống Nich-xơn triệt để sử dụng chính sách ngoại giao “cây gậy và củ cà rốt”. Với chính sách này, Mĩ vừa đe doạ bằng sức mạnh quân sự, vừa mua chuộc bằng lợi ích kinh tế nhằm khuất phục các nước, nhất là các nước chậm phát triển.
– Những năm 80, lúc này các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện cải tổ, cải cách, đổi mới, đây là một chủ trương đúng đắn nhằm làm cho xã hội chủ nghĩa phát triển. Nhưng quá trình thực hiện, có một số sai lầm, kẻ địch lợi dụng và chúng dùng diễn biến hòa bình ráo riết tiến công nhằm làm các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ.
=> Tóm lại diễn biến hòa bình có một quá trình hình thành phát triển khá rõ nét. Quá trình đó theo một trình tự, lúc đầu là một phương thức, một thủ đoạn dần phát triển thành một chiến lược hoàn chỉnh nằm trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ. Chiến lược đó luôn gắn với chiến lược quân sự của Mĩ.