hãy đóng vai trương sinh kể lại câu chuyện người con gái nam xương
0 bình luận về “hãy đóng vai trương sinh kể lại câu chuyện người con gái nam xương”
Trương Sinh kể lại câu chuyện người con gái nam xương :
Tôi tên là Trương Sinh, con một nhà hào phú giàu có ở Nam Xương. Từ nhỏ, tôi đã chẳng mặn mà gì với việc học hành nên lúc lớn cũng chỉ sống dựa vào nếp nhà. Nhiều người nói tôi trăng hoa ong bướm nhưng tôi thì không nghĩ vậy, vì từ khi lớn lên đến giờ, tôi chỉ thích có mỗi một người đó là Vũ Thị Thiết người con gái nết na và tư dung tốt đẹp. Tôi thưa với mẹ. Tính ngày tháng tốt, mẹ sửa soạn trăm lạng vàng, sang nhà Vũ Nương xin cưới nàng cho tôi.
Tuy là con nhà nghèo nhưng nàng rất “công dung ngôn hạnh”, vì vậy cuộc sống lứa đôi của chúng tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc sum vầy chẳng được bao lâu, triều đình bắt lính đi đánh giặc, và tôi nằm trong số người phải đi tòng quân. Lúc đó, vợ tôi còn đang mang thai đứa con đầu lòng. Ngày chia tay bịn rịn, lưu luyến đầy nước mắt. Tôi cúi đầu thương cảm nhận lời dạy bảo của mẹ già. Tôi đau đớn nghe những lời li biệt của vợ rồi lên đường ra nơi biên ải. Trong lòng vừa thương nhớ vợ con, vừa lo lắng cho mẹ già.
Ở nơi chinh chiến, tôi không nguôi nhớ về ngôi nhà đơn sơ với mẹ già và người vợ trẻ. Mãi rồi cuộc chiến cũng chấm dứt, tôi được trở về quê. Vừa đặt chân đến nhà thì hay tin mẹ già đã mất, tôi đau đớn vô cùng. Cảnh nhà heo hút càng sầu thảm làm sao. Tôi bế con trai tôi – nó tên Đản ra thăm mộ mẹ. Đứa con xa lạ với người cha mới gặp cứ quấy khóc hoài. Tôi cố gắng dỗ con:
– Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi.
Đản lại ngây thơ hỏi lại tôi:
– Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói? Chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi ngạc nhiên khi nghe con nói thế, liền gạn hỏi thêm thì thằng bé nói:
– Trước đây có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Nghe lời con trẻ, tôi vừa đau lòng vừa tức giận. Vậy ra vợ tôi là người đàn bà hư hỏng, trong lúc chồng đi chiến trường thì ở nhà lăng loàn với người đàn ông khác. Thế mà khi ở chiến trường nguy hiểm kia tôi lại không ngừng nhớ tới nàng, mong ngày mong đêm để được về đoàn tụ với nàng.
Về đến nhà, cơn ghen mù quáng khiến tôi không nhịn được, tôi la um lên cho hả giận. Chẳng màng vợ hết lời thanh minh, hàng xóm hết lòng khuyên giải, tôi đuổi Vũ Nương đi. Biết tôi không tin vào sự thật, nàng đau đớn ôm con lần cuối cùng rồi ra khỏi nhà.
Chiều muộn hôm đó, tôi nghe tin nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Tuy vẫn giận nhưng tôi cũng mang lưới ra để vớt xác nàng nhưng vớt mãi suốt đêm cũng chẳng thấy đâu.
Một đêm vắng vẻ, tôi ngồi ôm con bên ngọn đèn mới thắp, lòng buồn rầu nghĩ đến Vũ Nương. Bỗng thằng bé reo lên:
– Cha Đản lại đến kia kìa!
Tôi vội hỏi đâu thì nó chỉ vào cái bóng của tôi trên vách nhà. Tôi chợt hiểu ra mọi chuyện. Nhưng mà trời ơi! Tôi đã làm gì thế này. Chính tôi đã giết vợ mình. Vợ tôi đã chết oan uổng vì sự hồ đồ, đa nghi, cả ghen, ích kỉ,… của chính tôi. Tôi hối hận quá. Nhưng đã muộn mất rồi.
Thời gian trôi nhanh như gió thoảng, chỉ chốc lát đã trôi qua, hơn hai mươi năm trôi qua, vậy mà vẫn như mới xảy ra ngày hôm qua. Cho đến bây giờ, nỗi ân hận vẫn chưa bao giờ nguôi ngoai trong lòng Trương Sinh. Sự ghen tuông mù quáng, bất tín với vợ khiến tôi mất đi một người vợ hiền lành, nết na, khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ.
Nhà tôi họ Trương vốn chỉ có tôi là con trai duy nhất nên từ nhỏ tôi đã được bố mẹ cưng chiều vô cùng. Tính tôi đặc biệt không bao giờ tin tưởng tuyệt đối vào người khác, kể cả với người thân trong gia đình. Đến tuổi lấy chồng, trong làng có Vũ Nương, tính tình dịu dàng hết mức, xinh đẹp đoan trang, lại thương con, sai mẹ đem trầu cau, trăm lạng vàng rước về. làm vợ. . Dù là vợ chồng chung chăn chung gối, nhưng tôi không thực sự tin tưởng Vũ Nương, nên luôn cẩn trọng với nàng trong mọi việc. Nhưng Vũ Nương không phản bội ta và Trương gia luôn xử lý mọi việc rất khéo léo, nên duyên vợ chồng, nhưng vợ chồng ta chưa bao giờ mâu thuẫn.
Tuy nhiên, có những sự kiện bất ngờ xảy ra với tôi! Từ nhỏ tôi đã dựa dẫm vào con nhà giàu nên chưa bao giờ xem qua sách vở và nghĩ chỉ cần có tiền là có thể làm được gì. Đến khi triều đình bày binh bố trận, chiêu binh mãi mã, tôi vẫn nghĩ, mình là quân sư, sẽ không bị đày đi lính biên ải xa xôi. Tuy là con nhà giàu, nhưng vì không được học hành nên đã lọt vào danh sách truy bắt Chiêm Thành, tên tuổi đã đứng đầu. Biết rằng không thể làm khác được, tôi phải chuẩn bị lên đường. Ngày tôi đi, mẹ tôi nuốt nước mắt nói:
– Bây giờ tôi phải ra đi vì công việc quân sự của đất nước, tôi biết rằng đây là cơ hội để tôi tạo dựng sự nghiệp và công danh cho mình. Tuy nhiên, ngoài chiến trường, binh đao khó biết, bạn nên cẩn thận giữ mình. Đừng vì danh lợi mà lừa dối đối phương. Mẹ không mong con mang tiếng tốt, chỉ mong con trai bình an trở về. Các mẹ hãy nghe theo hướng dẫn của mẹ để có thể yên tâm làm việc nhà nhé.
Tôi vâng lời mẹ một cách hết sức tôn trọng, quỳ trên mặt đất, dập đầu và vâng lời mẹ. Còn Vũ Nương – vợ tôi thì bùi ngùi rót đầy chén rượu nói với tôi:
– Chàng đi chuyến này, ta không dám mong được mặc ấn hầu, mặc áo gấm, trở về quê cũ, chỉ xin hẹn ngày trở lại, chàng lại mang theo hai chữ bình an, vậy là đủ. Chỉ sợ quân khó lường, giặc khó lường, rợ chạy tội, vua hao tài tốn của; Cuộc tấn công lớn diệt địch, trễ hẹn đổi quân khiến con ôm nỗi lo, mẹ già lo lắng triền miên. Trong mảnh trăng Trường An, nhanh chóng đánh tan áo lạnh, nhìn liễu che nắng, tâm tình đường xa. Giả sử có rất nhiều thư, chỉ bạn sẽ không có tin tức về nó. Anh ở xa, em ôm nỗi ưu tư, nỗi nhớ!
Vũ Nương nói xong thì nước mắt tuôn rơi khiến tôi và mọi người xúc động. Vợ tôi lúc nào cũng dịu dàng như thế, chu đáo như thế, lúc đó tôi chỉ mong xa nhau vài năm thì nên một lòng một dạ với chồng. Mẹ già thêm một lạy, tôi vội vàng xách nữ trang quay gót, đến nơi tập kết nghĩa quân.
Miền biển xa xôi, hàng đêm hành quân vất vả. Ba năm dài chống giặc Chiêm Thành, nhiều lần vào sinh ra tử, kẻ thù ngoan cố cuối cùng cũng phải đầu hàng. Cuối cùng tôi đã có thể trở về nhà trong ba năm.
Tuy nhiên, niềm vui ngắn ngủi. Về đến nhà thì nhận được tin mẹ, mong ngóng tin con ở biên giới qua đời vì bạo bệnh, tôi có một cậu con trai tên Dần. Mẹ tôi mất, lòng tôi buồn vô hạn, cũng may có người con trai này khiến tôi có chút vui mừng trong lòng. Còn vợ tôi là Vũ Nương vẫn vậy, luôn ân cần, dịu dàng và chu đáo, mọi việc trong nhà từ khi tôi đi, mẹ mất, một mình cô quán xuyến hết. Ngày tôi trở về, cô ấy hạnh phúc vô cùng, vợ chồng, con cái được quây quần bên nhau để hưởng hạnh phúc.
Hôm sau, tôi đưa con ra thăm mộ mẹ già nhưng thằng bé nhất định không chịu đi theo mà khóc òa lên. Tôi chỉ an ủi nó:
– Anh nín đi, đừng khóc nữa mà em khó chịu! Cha đã bỏ cô ba năm, giờ mới trở về nhà, nhưng thật trớ trêu!
Con tôi ngơ ngác nhìn tôi và hỏi:
– Ôi hay quá, bố cũng là bố của con à? Các bạn biết nói là lạ, nhưng bố tôi chưa bao giờ nói gì trước đây!
Ôi, sao lạ vậy, tôi đi bộ đội ba năm rồi, năm nay mới trở về, mới gặp mặt con, sao nó lại nói trước đây nó có cha, chuyện gì thế này? Tôi chỉ hỏi con tôi:
– Ai là cha trước đây? Tại sao đến mà không nói gì?
Câu trả lời của đứa trẻ khiến tôi im lặng:
– Trước giờ ông ngoại chưa về, tối nào bố cũng vào ngồi với mẹ, mẹ làm gì thì ngồi, đi thì đi chứ mẹ có bao giờ bế đâu!
Mỗi đêm một người đàn ông đến? Trời ơi, một người phụ nữ đã có gia đình sống một mình ở nhà chồng mà lại dẫn đàn ông đi qua đêm? Vũ Nương đó hả làm gì có lỗi với Trương Sinh tôi, phải chăng chúng ta đã phản bội lại tôi mà không phải là tiết kiệm với ai rồi? Ba năm chờ chồng mà qua lại với đàn ông khác, sao còn xứng với tôi đây?
Về tới nhà, tôi vợ một trận thật lớn để giận. Tôi cô ấy là người phụ nữ hư thân mất nết, không biết xấu hổ, chồng đi chinh chiến ba năm lại vô cùng quen thuộc với những người làm vợ. Vũ Nương lúc đầu rất nhanh, nàng trân trọng nhìn tôi đăm đăm, rồi nàng rơi lệ:
– Thiếp con nhà nghèo, may mắn được gả cho chàng, thành Trương gia cùng chàng lập nên ơn nghĩa vợ chồng. Chia xa khi vừa lập gia thất được nửa, xa chàng, thật lòng năm vô cùng buồn! Ba năm chàng rời xa, tưởng chừng như đã lạnh, chưa một lần lướt tóc tới người khác, ngõ liễu hoa chưa bao giờ ngó ngàng. Thiếp giữ trọn đạo vợ chồng, mong chàng hãy soi chiếu, đừng vội tin lời người ngoài mà nghi oan cho nàng!
Thế nhưng, những lời nói của nàng khi ấy, tôi chẳng lấy gì làm nửa lời. Trong lòng tôi chỉ còn sự tức giận vì được phản bội, chỉ một mực nghi kỵ cô ấy làm việc có lỗi với tôi. Tôi chưa từng kể với nàng, tôi nghe con trai nói, mặc dù nàng hỏi, tôi cũng chưa từng nói những lời thanh minh của nàng. Nếu có, tôi không ghen tuông mù quáng mà biết lắng nghe Vũ Nương, nghe những lời giải thích của nàng, chịu nghe những lời ngăn cản của hàng xóm thì tôi không phải chịu cảnh rời áo với nàng bao năm qua.
Lúc đó, tôi chỉ làm một mực cho nàng thất tiết, mỗi ngày đều sử dụng hình ảnh bạc mà nhìn, đánh đuổi nàng. Vào thứ bảy sau chuyện đó, Vũ Nương vừa khóc vừa nói với tôi rằng:
– Thiếp nương tựa vì niềm vui gia đình, vì con trai của chúng ta, chưa bao giờ có ý nghĩ rời xa gia đình này. Đâu có thể ngờ, chàng rời đi ba năm, trở lại vì một lời của kẻ khác mà nghi oan cho nàng ở nhà không giữ trọn đạo vợ chồng. Nay sự việc đến rồi, cũng không thể trần tình, thanh minh với chàng được nữa. Thiếp đâu có thể nhìn lên núi Vọng Phu cao vời vợi kia nữa!
Thế nhưng, những người lọt vào tai tôi nửa chữ, tôi chỉ một mực chiết xuất, nghi kỵ nàng. Nói xong, nàng đứng dậy, tắm rửa quần áo rồi đi. Lúc đó, tôi cứ tưởng, cô ấy chồng con, với làng xóm nên ra đi, ai ngờ đâu, cô ấy lại thả mình xuống, chỉ để chứng nhận lòng trung trinh của mình.
Nghĩ lại, tôi thật vô cùng ân hận, chỉ vì sự tình không ngờ đây mà mình đã đưa người con gái dịu dàng, xinh đẹp như vợ tôi vào chốn cùng đường. Lúc nghe tin nàng gieo mình xuống sông, tôi tuy còn giận trong lòng nhưng nghĩ lại nghĩa vợ chồng, tìm người thu dọn nàng, thế nhưng chẳng thấy đâu cả. Lòng tiếc hận, tôi không thể nào ngủ được. Một buổi tối, đang ngồi cùng con trai bên đèn chiếu sáng, thì chợt thấy con trai tôi reo lên:
– Cha Đản lại đến rồi!
Tôi bất ngờ nhìn từ đầu đến cuối, nhưng chẳng thấy vui chút nào, tưởng tượng ra trò đùa, mới gặng hỏi con ở đâu. Nó mới nhanh chân chạy lại vách ngăn và trỏ vào cái bóng của tôi trên vách mà bảo:
– This this!
Tôi như chết lặng đi, giờ thì tôi đã hiểu mọi sự việc rồi. Tôi chắc chắn vợ đã nói với cái bóng trên vách ngăn của nó. Tôi thực sự ngu ngốc khi không nói rõ ràng buộc với vợ của mình, để giờ đây, dù ân hận, tôi cũng chẳng thể làm gì được nữa. Vũ Nương của tôi không thể trở thành bên cạnh tôi được nữa rồi!
Ngày tháng cứ trôi chậm, nỗi ân hận vì đánh mất người vợ hiền cứ thế trong lòng tôi. Cho tới một ngày hôm nay, có người tự xưng là Phan Lang, để tìm gặp tôi. Tôi lạ lùng bởi tôi không hề biết người này. Thế nhưng, người tên Phan Lang ấy đã cho tôi một tin tức còn đáng giật mình hơn nữa: Vợ tôi còn sống.
Lúc đầu, tôi không tin, chỉ xem đây là trò đùa của anh ấy. Tuy nhiên, khi ông ta trao chiếc vá vàng và kể chuyện lạc vào thủy cung của vua Nam Hải, tôi đã gặp vợ tôi, cùng cô ấy và được trao chiếc vá này cho tôi, bây giờ tôi mới tin là sự việc. . Phan Lang cũng vậy, Vũ Nương muốn nhờ ta dựng đàn ở bến Hoàng Giang – nếu gieo mình xuống thì nàng sẽ về. Tôi sợ hãi, bán tín bán nghi, nhưng, nếu Vũ Nương – vợ tôi quay lại, tôi sẽ đồng ý.
Thế là nghe lời nàng, dựng đàn ở bến Hoàng Giang suốt ba ngày trời mà vẫn không thấy Vũ Nương xuất hiện. Đến ngày thứ tư, tưởng như hết hy vọng, một ngọn lửa khác lại lan ra giữa vùng nước mênh mông. Theo sau hơn năm chiếc áo choàng, với tán, đèn sáng và đèn ảo. Sau khi ở trong hoa, Vũ Nương bước ra, mặc bộ quần áo lấp lánh, tôi hoa mắt chờ đợi, xưa kia nàng đẹp vô cùng, mặc bộ này càng đẹp hơn. Tuy nhiên, khi tôi mở kho gọi vàng, cô ấy không quay vào bờ mà chỉ đứng giữa dòng nói với tôi:
– Cảm ơn anh đã giúp cô ấy hoàn thành tâm nguyện. Nhưng đám mây này đã giúp tôi cảm ơn bạn rất nhiều
Trương Sinh kể lại câu chuyện người con gái nam xương :
Tôi tên là Trương Sinh, con một nhà hào phú giàu có ở Nam Xương. Từ nhỏ, tôi đã chẳng mặn mà gì với việc học hành nên lúc lớn cũng chỉ sống dựa vào nếp nhà. Nhiều người nói tôi trăng hoa ong bướm nhưng tôi thì không nghĩ vậy, vì từ khi lớn lên đến giờ, tôi chỉ thích có mỗi một người đó là Vũ Thị Thiết người con gái nết na và tư dung tốt đẹp. Tôi thưa với mẹ. Tính ngày tháng tốt, mẹ sửa soạn trăm lạng vàng, sang nhà Vũ Nương xin cưới nàng cho tôi.
Tuy là con nhà nghèo nhưng nàng rất “công dung ngôn hạnh”, vì vậy cuộc sống lứa đôi của chúng tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc sum vầy chẳng được bao lâu, triều đình bắt lính đi đánh giặc, và tôi nằm trong số người phải đi tòng quân. Lúc đó, vợ tôi còn đang mang thai đứa con đầu lòng. Ngày chia tay bịn rịn, lưu luyến đầy nước mắt. Tôi cúi đầu thương cảm nhận lời dạy bảo của mẹ già. Tôi đau đớn nghe những lời li biệt của vợ rồi lên đường ra nơi biên ải. Trong lòng vừa thương nhớ vợ con, vừa lo lắng cho mẹ già.
Ở nơi chinh chiến, tôi không nguôi nhớ về ngôi nhà đơn sơ với mẹ già và người vợ trẻ. Mãi rồi cuộc chiến cũng chấm dứt, tôi được trở về quê. Vừa đặt chân đến nhà thì hay tin mẹ già đã mất, tôi đau đớn vô cùng. Cảnh nhà heo hút càng sầu thảm làm sao. Tôi bế con trai tôi – nó tên Đản ra thăm mộ mẹ. Đứa con xa lạ với người cha mới gặp cứ quấy khóc hoài. Tôi cố gắng dỗ con:
– Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi.
Đản lại ngây thơ hỏi lại tôi:
– Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói? Chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi ngạc nhiên khi nghe con nói thế, liền gạn hỏi thêm thì thằng bé nói:
– Trước đây có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Nghe lời con trẻ, tôi vừa đau lòng vừa tức giận. Vậy ra vợ tôi là người đàn bà hư hỏng, trong lúc chồng đi chiến trường thì ở nhà lăng loàn với người đàn ông khác. Thế mà khi ở chiến trường nguy hiểm kia tôi lại không ngừng nhớ tới nàng, mong ngày mong đêm để được về đoàn tụ với nàng.
Về đến nhà, cơn ghen mù quáng khiến tôi không nhịn được, tôi la um lên cho hả giận. Chẳng màng vợ hết lời thanh minh, hàng xóm hết lòng khuyên giải, tôi đuổi Vũ Nương đi. Biết tôi không tin vào sự thật, nàng đau đớn ôm con lần cuối cùng rồi ra khỏi nhà.
Chiều muộn hôm đó, tôi nghe tin nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Tuy vẫn giận nhưng tôi cũng mang lưới ra để vớt xác nàng nhưng vớt mãi suốt đêm cũng chẳng thấy đâu.
Một đêm vắng vẻ, tôi ngồi ôm con bên ngọn đèn mới thắp, lòng buồn rầu nghĩ đến Vũ Nương. Bỗng thằng bé reo lên:
– Cha Đản lại đến kia kìa!
Tôi vội hỏi đâu thì nó chỉ vào cái bóng của tôi trên vách nhà. Tôi chợt hiểu ra mọi chuyện. Nhưng mà trời ơi! Tôi đã làm gì thế này. Chính tôi đã giết vợ mình. Vợ tôi đã chết oan uổng vì sự hồ đồ, đa nghi, cả ghen, ích kỉ,… của chính tôi. Tôi hối hận quá. Nhưng đã muộn mất rồi.
Thời gian trôi nhanh như gió thoảng, chỉ chốc lát đã trôi qua, hơn hai mươi năm trôi qua, vậy mà vẫn như mới xảy ra ngày hôm qua. Cho đến bây giờ, nỗi ân hận vẫn chưa bao giờ nguôi ngoai trong lòng Trương Sinh. Sự ghen tuông mù quáng, bất tín với vợ khiến tôi mất đi một người vợ hiền lành, nết na, khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ.
Nhà tôi họ Trương vốn chỉ có tôi là con trai duy nhất nên từ nhỏ tôi đã được bố mẹ cưng chiều vô cùng. Tính tôi đặc biệt không bao giờ tin tưởng tuyệt đối vào người khác, kể cả với người thân trong gia đình. Đến tuổi lấy chồng, trong làng có Vũ Nương, tính tình dịu dàng hết mức, xinh đẹp đoan trang, lại thương con, sai mẹ đem trầu cau, trăm lạng vàng rước về. làm vợ. . Dù là vợ chồng chung chăn chung gối, nhưng tôi không thực sự tin tưởng Vũ Nương, nên luôn cẩn trọng với nàng trong mọi việc. Nhưng Vũ Nương không phản bội ta và Trương gia luôn xử lý mọi việc rất khéo léo, nên duyên vợ chồng, nhưng vợ chồng ta chưa bao giờ mâu thuẫn.
Tuy nhiên, có những sự kiện bất ngờ xảy ra với tôi! Từ nhỏ tôi đã dựa dẫm vào con nhà giàu nên chưa bao giờ xem qua sách vở và nghĩ chỉ cần có tiền là có thể làm được gì. Đến khi triều đình bày binh bố trận, chiêu binh mãi mã, tôi vẫn nghĩ, mình là quân sư, sẽ không bị đày đi lính biên ải xa xôi. Tuy là con nhà giàu, nhưng vì không được học hành nên đã lọt vào danh sách truy bắt Chiêm Thành, tên tuổi đã đứng đầu. Biết rằng không thể làm khác được, tôi phải chuẩn bị lên đường. Ngày tôi đi, mẹ tôi nuốt nước mắt nói:
– Bây giờ tôi phải ra đi vì công việc quân sự của đất nước, tôi biết rằng đây là cơ hội để tôi tạo dựng sự nghiệp và công danh cho mình. Tuy nhiên, ngoài chiến trường, binh đao khó biết, bạn nên cẩn thận giữ mình. Đừng vì danh lợi mà lừa dối đối phương. Mẹ không mong con mang tiếng tốt, chỉ mong con trai bình an trở về. Các mẹ hãy nghe theo hướng dẫn của mẹ để có thể yên tâm làm việc nhà nhé.
Tôi vâng lời mẹ một cách hết sức tôn trọng, quỳ trên mặt đất, dập đầu và vâng lời mẹ. Còn Vũ Nương – vợ tôi thì bùi ngùi rót đầy chén rượu nói với tôi:
– Chàng đi chuyến này, ta không dám mong được mặc ấn hầu, mặc áo gấm, trở về quê cũ, chỉ xin hẹn ngày trở lại, chàng lại mang theo hai chữ bình an, vậy là đủ. Chỉ sợ quân khó lường, giặc khó lường, rợ chạy tội, vua hao tài tốn của; Cuộc tấn công lớn diệt địch, trễ hẹn đổi quân khiến con ôm nỗi lo, mẹ già lo lắng triền miên. Trong mảnh trăng Trường An, nhanh chóng đánh tan áo lạnh, nhìn liễu che nắng, tâm tình đường xa. Giả sử có rất nhiều thư, chỉ bạn sẽ không có tin tức về nó. Anh ở xa, em ôm nỗi ưu tư, nỗi nhớ!
Vũ Nương nói xong thì nước mắt tuôn rơi khiến tôi và mọi người xúc động. Vợ tôi lúc nào cũng dịu dàng như thế, chu đáo như thế, lúc đó tôi chỉ mong xa nhau vài năm thì nên một lòng một dạ với chồng. Mẹ già thêm một lạy, tôi vội vàng xách nữ trang quay gót, đến nơi tập kết nghĩa quân.
Miền biển xa xôi, hàng đêm hành quân vất vả. Ba năm dài chống giặc Chiêm Thành, nhiều lần vào sinh ra tử, kẻ thù ngoan cố cuối cùng cũng phải đầu hàng. Cuối cùng tôi đã có thể trở về nhà trong ba năm.
Tuy nhiên, niềm vui ngắn ngủi. Về đến nhà thì nhận được tin mẹ, mong ngóng tin con ở biên giới qua đời vì bạo bệnh, tôi có một cậu con trai tên Dần. Mẹ tôi mất, lòng tôi buồn vô hạn, cũng may có người con trai này khiến tôi có chút vui mừng trong lòng. Còn vợ tôi là Vũ Nương vẫn vậy, luôn ân cần, dịu dàng và chu đáo, mọi việc trong nhà từ khi tôi đi, mẹ mất, một mình cô quán xuyến hết. Ngày tôi trở về, cô ấy hạnh phúc vô cùng, vợ chồng, con cái được quây quần bên nhau để hưởng hạnh phúc.
Hôm sau, tôi đưa con ra thăm mộ mẹ già nhưng thằng bé nhất định không chịu đi theo mà khóc òa lên. Tôi chỉ an ủi nó:
– Anh nín đi, đừng khóc nữa mà em khó chịu! Cha đã bỏ cô ba năm, giờ mới trở về nhà, nhưng thật trớ trêu!
Con tôi ngơ ngác nhìn tôi và hỏi:
– Ôi hay quá, bố cũng là bố của con à? Các bạn biết nói là lạ, nhưng bố tôi chưa bao giờ nói gì trước đây!
Ôi, sao lạ vậy, tôi đi bộ đội ba năm rồi, năm nay mới trở về, mới gặp mặt con, sao nó lại nói trước đây nó có cha, chuyện gì thế này? Tôi chỉ hỏi con tôi:
– Ai là cha trước đây? Tại sao đến mà không nói gì?
Câu trả lời của đứa trẻ khiến tôi im lặng:
– Trước giờ ông ngoại chưa về, tối nào bố cũng vào ngồi với mẹ, mẹ làm gì thì ngồi, đi thì đi chứ mẹ có bao giờ bế đâu!
Mỗi đêm một người đàn ông đến? Trời ơi, một người phụ nữ đã có gia đình sống một mình ở nhà chồng mà lại dẫn đàn ông đi qua đêm? Vũ Nương đó hả làm gì có lỗi với Trương Sinh tôi, phải chăng chúng ta đã phản bội lại tôi mà không phải là tiết kiệm với ai rồi? Ba năm chờ chồng mà qua lại với đàn ông khác, sao còn xứng với tôi đây?
Về tới nhà, tôi vợ một trận thật lớn để giận. Tôi cô ấy là người phụ nữ hư thân mất nết, không biết xấu hổ, chồng đi chinh chiến ba năm lại vô cùng quen thuộc với những người làm vợ. Vũ Nương lúc đầu rất nhanh, nàng trân trọng nhìn tôi đăm đăm, rồi nàng rơi lệ:
– Thiếp con nhà nghèo, may mắn được gả cho chàng, thành Trương gia cùng chàng lập nên ơn nghĩa vợ chồng. Chia xa khi vừa lập gia thất được nửa, xa chàng, thật lòng năm vô cùng buồn! Ba năm chàng rời xa, tưởng chừng như đã lạnh, chưa một lần lướt tóc tới người khác, ngõ liễu hoa chưa bao giờ ngó ngàng. Thiếp giữ trọn đạo vợ chồng, mong chàng hãy soi chiếu, đừng vội tin lời người ngoài mà nghi oan cho nàng!
Thế nhưng, những lời nói của nàng khi ấy, tôi chẳng lấy gì làm nửa lời. Trong lòng tôi chỉ còn sự tức giận vì được phản bội, chỉ một mực nghi kỵ cô ấy làm việc có lỗi với tôi. Tôi chưa từng kể với nàng, tôi nghe con trai nói, mặc dù nàng hỏi, tôi cũng chưa từng nói những lời thanh minh của nàng. Nếu có, tôi không ghen tuông mù quáng mà biết lắng nghe Vũ Nương, nghe những lời giải thích của nàng, chịu nghe những lời ngăn cản của hàng xóm thì tôi không phải chịu cảnh rời áo với nàng bao năm qua.
Lúc đó, tôi chỉ làm một mực cho nàng thất tiết, mỗi ngày đều sử dụng hình ảnh bạc mà nhìn, đánh đuổi nàng. Vào thứ bảy sau chuyện đó, Vũ Nương vừa khóc vừa nói với tôi rằng:
– Thiếp nương tựa vì niềm vui gia đình, vì con trai của chúng ta, chưa bao giờ có ý nghĩ rời xa gia đình này. Đâu có thể ngờ, chàng rời đi ba năm, trở lại vì một lời của kẻ khác mà nghi oan cho nàng ở nhà không giữ trọn đạo vợ chồng. Nay sự việc đến rồi, cũng không thể trần tình, thanh minh với chàng được nữa. Thiếp đâu có thể nhìn lên núi Vọng Phu cao vời vợi kia nữa!
Thế nhưng, những người lọt vào tai tôi nửa chữ, tôi chỉ một mực chiết xuất, nghi kỵ nàng. Nói xong, nàng đứng dậy, tắm rửa quần áo rồi đi. Lúc đó, tôi cứ tưởng, cô ấy chồng con, với làng xóm nên ra đi, ai ngờ đâu, cô ấy lại thả mình xuống, chỉ để chứng nhận lòng trung trinh của mình.
Nghĩ lại, tôi thật vô cùng ân hận, chỉ vì sự tình không ngờ đây mà mình đã đưa người con gái dịu dàng, xinh đẹp như vợ tôi vào chốn cùng đường. Lúc nghe tin nàng gieo mình xuống sông, tôi tuy còn giận trong lòng nhưng nghĩ lại nghĩa vợ chồng, tìm người thu dọn nàng, thế nhưng chẳng thấy đâu cả. Lòng tiếc hận, tôi không thể nào ngủ được. Một buổi tối, đang ngồi cùng con trai bên đèn chiếu sáng, thì chợt thấy con trai tôi reo lên:
– Cha Đản lại đến rồi!
Tôi bất ngờ nhìn từ đầu đến cuối, nhưng chẳng thấy vui chút nào, tưởng tượng ra trò đùa, mới gặng hỏi con ở đâu. Nó mới nhanh chân chạy lại vách ngăn và trỏ vào cái bóng của tôi trên vách mà bảo:
– This this!
Tôi như chết lặng đi, giờ thì tôi đã hiểu mọi sự việc rồi. Tôi chắc chắn vợ đã nói với cái bóng trên vách ngăn của nó. Tôi thực sự ngu ngốc khi không nói rõ ràng buộc với vợ của mình, để giờ đây, dù ân hận, tôi cũng chẳng thể làm gì được nữa. Vũ Nương của tôi không thể trở thành bên cạnh tôi được nữa rồi!
Ngày tháng cứ trôi chậm, nỗi ân hận vì đánh mất người vợ hiền cứ thế trong lòng tôi. Cho tới một ngày hôm nay, có người tự xưng là Phan Lang, để tìm gặp tôi. Tôi lạ lùng bởi tôi không hề biết người này. Thế nhưng, người tên Phan Lang ấy đã cho tôi một tin tức còn đáng giật mình hơn nữa: Vợ tôi còn sống.
Lúc đầu, tôi không tin, chỉ xem đây là trò đùa của anh ấy. Tuy nhiên, khi ông ta trao chiếc vá vàng và kể chuyện lạc vào thủy cung của vua Nam Hải, tôi đã gặp vợ tôi, cùng cô ấy và được trao chiếc vá này cho tôi, bây giờ tôi mới tin là sự việc. . Phan Lang cũng vậy, Vũ Nương muốn nhờ ta dựng đàn ở bến Hoàng Giang – nếu gieo mình xuống thì nàng sẽ về. Tôi sợ hãi, bán tín bán nghi, nhưng, nếu Vũ Nương – vợ tôi quay lại, tôi sẽ đồng ý.
Thế là nghe lời nàng, dựng đàn ở bến Hoàng Giang suốt ba ngày trời mà vẫn không thấy Vũ Nương xuất hiện. Đến ngày thứ tư, tưởng như hết hy vọng, một ngọn lửa khác lại lan ra giữa vùng nước mênh mông. Theo sau hơn năm chiếc áo choàng, với tán, đèn sáng và đèn ảo. Sau khi ở trong hoa, Vũ Nương bước ra, mặc bộ quần áo lấp lánh, tôi hoa mắt chờ đợi, xưa kia nàng đẹp vô cùng, mặc bộ này càng đẹp hơn. Tuy nhiên, khi tôi mở kho gọi vàng, cô ấy không quay vào bờ mà chỉ đứng giữa dòng nói với tôi:
– Cảm ơn anh đã giúp cô ấy hoàn thành tâm nguyện. Nhưng đám mây này đã giúp tôi cảm ơn bạn rất nhiều