Hãy trình bày về môi trường sống, thức ăn và cách bắt mồi, cách di chuyển,sinh sản của các loài thú sau: + Thú mỏ vịt. +kanguru +dơi +hà mã +sư tử +cá

Hãy trình bày về môi trường sống, thức ăn và cách bắt mồi, cách di chuyển,sinh sản của các loài thú sau:
+ Thú mỏ vịt.
+kanguru
+dơi
+hà mã
+sư tử
+cá heo
+ngựa
+voi

0 bình luận về “Hãy trình bày về môi trường sống, thức ăn và cách bắt mồi, cách di chuyển,sinh sản của các loài thú sau: + Thú mỏ vịt. +kanguru +dơi +hà mã +sư tử +cá”

  1. Đáp án:

     

    Giải thích các bước giải:

    THÚ MỎ VỊT:

    Cơ thể và đuôi của thú mỏ vịt được bao phủ bởi bộ lông dày, màu nâu để giữ con vật được ấm áp. Lông không thấm nước, và có kết cấu giống chuột chũi. Thú mỏ vịt dùng đuôi nó để dự trữ chất béo (đặc điểm thích nghi này cũng xuất hiện ở quỷ Tasmania). Nó có chân màng và một cái mỏ rộng, giống như làm bằng cao su; đặc điểm này gần với vịt hơn bất kỳ động vật có vú nào ngày nay. Màng chân lớn hơn ở chân trước và được gập lại khi đi bộ trên đất liền. Không giống mỏ chim (mỏ trên và dưới tách ra để lộ miệng), mỏ của thú mỏ vịt là một cơ quan cảm giác và miệng ở mặt dưới. Lỗ mũi ở mặt trên của mỏ, còn mắt và tai nằm trên một rãng, rãnh này được đóng lại khi bơi. Thú vỏ vịt phát ra một tiếng kêu thấp khi bị quấy rầy và một loạt các âm thanh khác đã được báo cáo trong mẫu vật bị giam cầm.

    KANGURU:

    DƠI:

    Các loài trong bộ này có nhiều nét chung với thú ăn sâu bọ và có thể coi như một nhánh Thú ăn sâu bọ thích nghi với vận chuyển bay. Chi trước biến đổi thành cánh da. Ngón tay, trừ ngón một rất dài và căng màng da mỏng không lông. Màng da nối không chỉ chi trước với chi sau và cả chi sau với đuôi. Cơ ngực lớn. Dơi còn đặc trưng với tư thế treo thân độc đáo (đu mình treo ngược).

    Dơi phát siêu âm với tần số 50.000 – 70.000 Hz. Nhờ tiếp nhận siêu âm vào tai, dơi có thể ước lượng khoảng xa của chướng ngại vật. Tuy nhiên, bất cứ con dơi nào cũng không chỉ sử dụng duy nhất năng lực định vị thuần túy, mà còn kết hợp với sự quan sát từ đôi mắt trong khi bay lượn. Với loài dơi thường ăn hoa quả thì hệ thị giác của chúng rất phát triển, với vị trí ngay trên đầu. Riêng với loài ăn côn trùng lại có cặp mắt nhỏ hơn, thường được dùng để xác định cao độ so với mặt đất, nhận biết mức độ ánh sáng, phân biệt ngày đêm để chọn thời điểm đi săn thích hợp, đánh giá kích thước con mồi hay vật cản, cũng như định hướng lúc đang bay tìm mồi.Dơi con thường bị rơi xuống đất khi không được chăm sóc. Tuy nhiên dơi con có thể bám vào mẹ và cùng di chuyển, dơi con phát triển nhanh nên sẽ rất khó khăn nếu dơi mẹ phải mang một lúc nhiều con. Đó là lý do tại sao 1 năm dơi mẹ chỉ sinh 1 lần. Khả năng bay là bẩm sinh, tuy nhiên khi mới sinh đôi cánh của dơi quá nhỏ để bay, các loài dơi nhỏ (thuộc phân bộ Microchiroptera) bay được khi chúng được 6 đến 8 tuần tuổi trong khi các loài dơi lớn (thuộc phân bộ Megachiroptera) phải mất 4 tháng mới biết bay. Dơi trưởng thành khi được 2 năm tuổi. Tuổi thọ trung bình của dơi là 20 năm, tuy vậy số lượng dơi không được nhiều do tỉ lệ sinh thấp

    HÀ MÃ:

    Hà mã (Hippopotamus amphibius) là một loài động vật có vú ăn cỏ lớn sống ở châu Phi Hạ Sahara, và là một trong hai loài còn sinh tồn của Họ Hà mã (Hippopotamidae); loài còn lại là hà mã lùn. Đây là một trong những loài thú có vú trên cạn lớn nhất và là động vật móng guốc chẵn nặng nhất, dù thấp hơn nhiều so với hươu cao cổ.Hà mã là loài sống nửa ở nước nửa trên cạn, cư trú ở các con sông, hồ và các đầm lầy rừng ngập mặn Tây Phi nơi những con đực chiếm lĩnh một đoạn sông và đứng đầu đàn gồm 5 đến 30 con cái và con non. Vào ban ngày, chúng duy trì sự mát mẻ bằng cách đầm mình trong nước hay bùn; và sự sinh sản cũng diễn ra trong nước. Chúng lên bờ vào ban đêm để ăn cỏ. Mặc dù các con hà mã nghỉ ngơi gần nhau trong nước, thì việc kiếm ăn lại là hoạt động đơn lẻ và không mang tính lãnh thổ.

    SƯ TỬ:

    Sư tử là loài động vật sống ở các đồng bằng rộng rãi, và chúng có thể được tìm thấy ở khắp mọi nơi ở châu Phi. Tuy nhiên chúng là loài đang bị đe dọa với quần thể chủ yếu sống chủ yếu ở các vườn quốc gia của Tanzania và Nam Phi. Trước khi loài người chiếm ưu thế thì sư tử là loài động vật chiếm nhiều lãnh thổ nhất hơn bất kỳ loài động vật có vú trên đất liền. Sư tử thích đồng cỏ và thảo nguyên, gần các con sông và rừng cây mở với những bụi cây. Chúng không sống trong rừng nhiệt đới và hiếm khi vào rừng kín. Trên núi Elgon, sư tử đã được ghi nhận lên tới độ cao 3.600 m (11.800 ft) và gần với đường tuyết trên núi Kenya. Sư tử cũng xuất hiện ở đồng cỏ, thảo nguyên với những cây keo rải rác, đóng vai trò là bóng mát cho chúng.

    Hầu hết các con sư tử cái sinh sản vào lúc chúng được bốn tuổi. Sư tử không giao phối vào một thời điểm cụ thể trong năm và con cái là đa thê. Giống như những con mèo khác, dương vật của sư tử đực có gai hướng về phía sau. Trong quá trình rút dương vật, các gai cào vào thành âm đạo của con cái, có thể gây rụng trứng. Một con sư tử cái có thể giao phối với nhiều con đực khi chu kỳ động dục.

    Khoảng cách thế hệ của sư tử là khoảng bảy năm. Thời gian mang thai trung bình là khoảng 110 ngày; con cái sinh ra một lứa từ một đến bốn con trong một hang hẻo lánh, có thể là một bụi cây, lau sậy, hang động hoặc một khu vực được che chở khác, thường tránh xa đàn. Con cái sẽ thường đi săn một mình trong khi đàn con vẫn ở gần hang. Sư tử con mới sinh chưa mở mắt – mắt chúng mở ra khoảng bảy ngày sau khi sinh. Chúng nặng 1,2-2,1 kg (2,6-4,6 lb) khi sinh và gần như chưa tự làm gì được, chúng bắt đầu bò một hoặc hai ngày sau khi sinh và đi bộ được khoảng ba tuần tuổi. Để tránh sự tích tụ mùi hương thu hút sự chú ý của những kẻ săn mồi, sư tử cái di chuyển đàn con của mình đến một địa điểm mới vài lần một tháng, mang từng con một bằng cách dùng miệng cắn nhẹ sau gáy của con non và mang đi.

    Một cặp sư tử giao phối ở Masai MaraMột con sư tử con ở Masai MaraMột cặp sư tử đực

    Thông thường, sư tử mẹ không đi hẳn khỏi đàn và con cái trở lại đàn cho đến khi con non được sáu đến tám tuần tuổi. Đôi khi chúng trở lại đàn sớm hơn, đặc biệt nếu những con sư tử khác đã sinh con cùng một lúc. Nhóm sư tử cái thường đồng bộ hóa chu kỳ sinh sản của chúng và nuôi dưỡng con non, con non thường bú bừa bãi từ bất kỳ hoặc tất cả các con cái đang nuôi dưỡng trong đàn chứ không chỉ mẹ chúng. Sự đồng bộ của các ca sinh nở là thuận lợi vì các con phát triển có kích thước gần giống nhau và có cơ hội sống sót ngang nhau, và những con non không bị chi phối bởi các đàn con lớn hơn.

    Khi lần đầu tiên được giới thiệu với phần còn lại của niềm tự hào, sư tử con thiếu tự tin khi đối đầu với người lớn khác ngoài mẹ. Tuy nhiên, họ sớm bắt đầu đắm mình trong cuộc sống kiêu hãnh, tuy nhiên, chơi với nhau hoặc cố gắng bắt đầu chơi đùa với những con trưởng thành. [Những con sư tử cái có đàn con của chúng có nhiều khả năng khoan dung với những con sư tử khác hơn những con sư tử không có con. Sức chịu đựng của đàn con thay đổi – đôi khi một con đực sẽ kiên nhẫn để đàn con chơi với đuôi hoặc bờm của nó, trong khi một con khác có thể gầm gừ và đuổi lũ con đi

    Cai sữa sẽ diễn ra sau sáu hoặc bảy tháng. Sư tử đực đạt đến độ chín ở khoảng ba tuổi và ở bốn đến năm tuổi có khả năng thách thức và thay thế con đực trưởng thành gắn liền với một đàn khác. Chúng bắt đầu già đi và suy yếu ở độ tuổi từ 10 đến 15 tuổi. Khi một hoặc nhiều con đực mới hất cẳng những con đực trước đó có liên quan đến đàn, những kẻ chiến thắng thường giết chết bất kỳ con non nào hiện có, có lẽ vì con cái không còn dễ tiếp nhận sự giao phối cho đến khi con của chúng trưởng thành hoặc chết. Con cái thường quyết liệt bảo vệ đàn con của mình khỏi một con đực đang chiếm đoạt nhưng hiếm khi thành công trừ khi một nhóm ba hoặc bốn con cái trong đàn hợp lực chống lại con đực. Đàn con cũng có thể chết vì đói và bị bỏ rơi, và bị săn mồi bởi báo, linh cẩu và chó hoang. Có tới 80% những con sư tử con sẽ chết trước hai tuổi.

    Cả sư tử đực và cái có thể bị hất cẳng khỏi đàn để trở thành những cá thể đơn độc, mặc dù hầu hết con cái thường ở lại với đàn khi sinh ra. Tuy nhiên, khi một đàn trở nên quá lớn, thế hệ con cái trẻ nhất có thể bị buộc phải rời đi để tìm lãnh thổ của riêng mình. Khi một con sư tử đực mới chiếm lấy một đàn, những con sư tử ở độ tuổi vị thành niên – cả đực và cái – có thể bị đuổi đi. Sư tử của cả hai giới có thể tương tác đồng tính luyến ái. Sư tử được chứng minh là có liên quan đến các hoạt động đồng tính luyến ái và tán tỉnh nhóm; con đực cũng sẽ xoa đầu và lăn lộn với nhau trước khi mô phỏng giao phối với nhau.

    CÁ HEO:

    Cá heo là động vật có vú sống ở đại dương và sông nước có quan hệ mật thiết với cá voi. Có gần 40 loài cá heo thuộc 17 chi sinh sống ở các đại dương, số ít còn lại sinh sống tại một số con sông trên thế giới (sông Dương Tử, sông Amazon, sông Ấn, sông Hằng,…). Kích thước của cá heo có thể từ 1,2 m (4 ft) và 40 kg (90 lb) (Cá heo Maui), cho tới 9,5 m (30 ft) và 10 tấn (9,8 tấn Anh; 11 tấn thiếu) (Cá heo đen lớn hay Cá voi sát thủ). Cá heo có trên toàn thế giới và thường cư ngụ ở các biển nông của thềm lục địa. Cá heo là loài ăn thịt, chủ yếu là ăn cá và mực. Họ cá voi đại dương Delphinidae là họ lớn nhất trong bộ cá heo và cũng là họ xuất hiện muộn nhất: khoảng 10 triệu năm trước đây, trong thế Trung Tân. Cá heo là một trong số những động vật thông minh và được biết đến nhiều trong văn hóa loài người nhờ hình thức thân thiện và thái độ tinh nghịch

    NGỰA:

    Ngựa (danh pháp hai phần: Equus caballus) là một loài động vật có vú trong họ Equidae, bộ Perissodactyla (bộ móng guốc). Loài này được Linnaeus mô tả năm 1758., và là một trong số 8 phân loài còn sinh tồn cho tới ngày nay của họ Equidae. Ngựa cái mang thai kéo dài khoảng 335-340 ngày. Ngựa thường sinh một. Ngựa con có khả năng đứng và chạy một thời gian ngắn sau sinh. Ngựa bốn tuổi được coi là ngựa trưởng thành, mặc dù chúng tiếp tục phát triển bình thường cho đến khi sáu tuổi, thời gian hoàn thành sự phát triển của ngựa cũng phụ thuộc vào kích cỡ của ngựa, giống, giới tính và chất lượng chăm sóc.

    VOI:

    Voi là động vật có vú thuộc họ Elephantidae (cận ngành) và là động vật trên cạn lớn nhất hiện nay. Ba loài hiện được công nhận: voi đồng cỏ châu Phi, voi rừng châu Phi và voi châu Á. Elephantidae là nhánh duy nhất còn sót lại của bộ Proboscidea; thành viên tuyệt chủng bao gồm voi răng mấu. Elephantidae cũng bao gồm một số nhóm hiện đã tuyệt chủng, bao gồm cả voi ma mút và voi ngà thẳng. Voi châu Phi có tai lớn và lưng lõm, trong khi voi châu Á có tai nhỏ và lưng lồi hoặc ngang. Đặc điểm nổi bật của tất cả các loài voi bao gồm thân dài, ngà, vạt tai lớn, chân to và làn da dày nhưng nhạy cảm. Vòi voi được sử dụng để thở, đưa thức ăn và nước vào miệng và nắm lấy đồ vật. Đôi ngà, tiến hóa từ răng cửa, chức năng làm vũ khí và công cụ để di chuyển chướng ngại vật và đào hố. Hai cái tai lớn duy trì nhiệt độ cơ thể ổn định và dùng để giao tiếp. Chân to như cây cột giúp tải trọng lượng lớn.

    Kích thước của một con voi có ý nghĩa là khi nó phát triển hoàn toàn thì ngoài con người ra, nó an toàn trước tất cả các loài thú ăn thịt. Và để nuôi sống cơ thể vĩ đại của mình, nó phải cần rất nhiều thức ăn. Mỗi con voi trưởng thành ăn khoảng 150 kg (300 lb) cỏ, cành nhỏ, lá cây, trái cây,… mỗi ngày. Những thức ăn như vậy cần được nhai kĩ càng. Voi có những răng nghiền phía sau ở cửa miệng, đây là vị trí mà các răng có lực mạnh nhất, nhưng nó cũng bị mòn đi. Khi đó răng mới sẽ được mọc lên ở phía dưới rồi đẩy răng cũ ra ngoài. Do đó, voi mọc răng trong suốt cuộc đời, tổng cộng có 6 bộ răng nghiền, nhưng khi bộ răng cuối cùng bị mòn thì khi đó voi đã sống đến 55 tuổi. Nó trở nên yếu đi vì thiếu thức ăn và sẽ chết vì đói nhiều hơn là về bệnh tật.

    Một con voi đang ăn cỏ khô, mỗi ngày voi ăn và uống một lượng khổng lồ

    Voi dùng vòi để quặp thức ăn và đưa vào miệng. Thức ăn chủ yếu của chúng là cỏ và các loại cây khác trên mặt đất. Voi dùng vòi để kéo lá cây, thân cây và cành cây từ trên cao xuống. Khi thức ăn khan hiếm, voi dùng ngà để húc đổ cây. Khi khát, voi tập trung bên bờ sông hoặc các vũng nước, thậm chí dùng vòi để đào sâu xuống để hút nước. Voi uống nước bằng cách hút nước vào vòi rồi phun vào trong miệng. Mỗi ngày voi tiêu thụ 160-300 lít nước. Voi cũng phun nước lên lưng để làm mát da.

    Mỗi ngày voi con trưởng thành thải ra một lượng chất thải nặng hơn trọng lượng của một cậu bé. Phân voi chứa những hạt cây mà voi đã nuốt sẽ mọc lên thành cây mới thay thế cho những cây mà chúng đã ăn hoặc húc đổ. Hiện nay ở một số nước đang nuôi voi, nghiên cứu và đi vào thử nghiệm chế biến phân voi thành giấy (vì phân voi khá sạch, không nặng mùi do chúng chỉ ăn thực vật và uống nước).

    Lãnh thổ[sửa | sửa mã nguồn]

    Thực ra, voi không bảo vệ lãnh thổ riêng của nó, thay vào đó, nó thích hòa nhập vào đàn sống bên cạnh, trong đó con voi đầu đàn là con voi cái già nhất sẽ giữ vai trò làm chủ. Nó dẫn cả đàn tìm đến những nơi có nước và thức ăn. Theo sau con voi này là những chú voi con và những con voi cái trưởng thành. Voi sống chung một đàn qua nhiều năm. Các thành viên trong đàn luôn sống cạnh nhau, chăm sóc cho nhau, thậm chí sẵn sàng cho bất kỳ chú voi con nào bú nếu cần thiết. Đôi khi đàn bị tách ra, một số con voi trẻ hơn rời đàn cùng những con voi khác. Nhưng đàn nhỏ này vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với gia đình gốc của chúng và có thể quay lại trong một thời gian rất ngắn.

    Voi đực non (khoảng 12 tuổi) sống đơn độc hoặc sống cùng các voi đực khác. Số thành viên trong đàn chúng lập ra rất hay thay đổi. Khi các gia đình voi tập hợp lại sẽ trở thành bầy voi gồm hàng trăm thành viên. Voi giao tiếp bằng xúc giác, khứu giác, hoặc dùng vòi, tai ra hiệu. Tiếng ré của voi vang rất xa, voi ré lên để gọi nhau tập hợp thành bầy.

    Sinh sản[sửa | sửa mã nguồn]

    Tập tính sinh sản của voi cũng rất đặc biệt. Voi không có mùa giao phối riêng, nhưng nếu một con cái giao phối thì chúng sẵn sàng gia nhập đàn mặc dù chúng có thể có mặt không thường xuyên cho lắm. Chu kỳ mang thai của voi là 22 tháng, dài nhất trong số các động vật sống trên mặt đất. Voi con mới sinh cân nặng khoảng 120 kg (265 pao). Vừa mới sinh voi con trông rất lem luốc nên chúng được voi mẹ lau sạch trước khi chúng đứng lên được. Chúng thường sinh vào mùa xuân. Sau khi voi con ra đời, chúng được những voi khác ở bên để bảo vệ cho tới khi nó đủ cứng cáp để có thể đi được. Cũng như các loài thú có tuổi thọ dài khác, voi dành rất nhiều năm để chăm sóc con. Voi trưởng thành quá to lớn nên không có mấy kẻ thù, nhưng voi con có nguy cơ bị tấn công. Voi con bú sữa mẹ trong vòng năm năm và voi đực rời đàn khi đủ mười ba tuổi. Voi lớn lên rất chậm và chúng có thể sống được 60 năm hoặc thậm chí 80 năm.

    gửi bạn 

    chúc bạn học tốt

    mong bn cho mik 5* và câu trả lời hay nhất nha vì mik lm bài này tốn nhiều thời gian và công sức lắm ạ 

     

    Bình luận

Viết một bình luận