Hình dung cảm nghĩ của em về tuổi trẻ VN trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua chuyện ngắn những ngôi sao xa xôi…. Bài văn nhaa not đoạn Mn giúp mik v

Hình dung cảm nghĩ của em về tuổi trẻ VN trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua chuyện ngắn những ngôi sao xa xôi….
Bài văn nhaa not đoạn
Mn giúp mik vs ….hứa đánh giá 5*

0 bình luận về “Hình dung cảm nghĩ của em về tuổi trẻ VN trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua chuyện ngắn những ngôi sao xa xôi…. Bài văn nhaa not đoạn Mn giúp mik v”

  1. Tiếp cận với chiến tranh, miêu tả chiến tranh có nhiều cách, của nhiều người. Tuy nhiên, chiến tranh đã và sẽ qua đi, cái gì từ những trang văn còn lại ? Câu hỏi ấy phải chờ đến thời gian, người trọng tài công minh nhất chưa một lần bỏ sót tài năng. Vậy, Những ngôi sao xa xôi liệu có phải là một trong số ứng cử viên được bầu chọn ?

    Điều sáng giá nhất tạo nên một cái nhìn không nhàm chán về chiến tranh, đối lập với chiến tranh là cái nhìn và khắc hoạ chân dung các cô gái. Bức tranh dữ dội về cái sống và cái chết nơi đạn bom trận mạc có được một thứ đường viền cứ óng ánh lên từ cái nhìn trong trẻo ấy. Ấy là chưa nói nhân vật trong truyện bước vào cuộc chiến đấu đầy ắp những ảo tưởng. Tưởng rằng gia nhập một đơn vị thanh niên xung phong ngoài hoả tuyến là “phải vác súng kia, đi rầm rộ dưới những cánh rừng không trăng sao. Nói với nhau phải mạnh và gọn như những câu khẩu hiệu”, nghĩa là oai hùng lắm, một thứ hào quang của một thế hệ nếu không vừa rời ghế nhà trường thì cũng gần như thế. Dày dạn trước cái sống và cái chết hằng ngày mà chị Thao còn sợ máu, sợ nước mắt. Phương Định thì sợ nhất: cô đơn. Giữa tiếng bom địch gào thét, chỉ cần một tiếng súng bắn trả, “dù chỉ một tiếng súng trường thôi, con người cũng thấy mênh mông bên mình một sự che chở đồng tình”. Gian khổ, thiếu thốn đến cùng cực, nhiều bữa cơm không có canh, bọn con gái lấy nước uống chan vào. Nhưng khi biết rằng “bọn con trai phải kêu lên vì thương”, thế là đời lại tươi lên như không có gì đáng phàn nàn, lo lắng. Cuộc nói chuyện của nhân vật nữ xưng “tôi” với đại đội trưởng đơn vị trong điện thoại có lúc gắt lên: “Trinh sát chưa về”, nhưng một cái gì đấy như ấm lòng hơn khi hình ảnh người cán bộ chỉ huy ấy hiện lên dưới con mắt dịu dàng con gái “Đại đội trưởng rất hay dùng những từ tế nhị như “cảm ơn”, “xin lỗi”, “chúc may mắn”. Anh trẻ, người gầy, hay đau khớp, hay làm ca dao cho báo tường. Nhà đâu như cuối phố Lò Đúc”.

    Có tương lai đang hứa hẹn từng giờ, có quá khứ để ràng buộc, những cô gái không xem đó là những nơi ẩn nấp để thu mình. Cái mà họ đang đối mặt là sự còn, mất từng phút, từng giây. Không khí của chiến tranh (không giống tương lai hay quá khứ) có một âm điệu riêng. Chẳng hạn như sự im lặng: “Cuộc sống ở đây đã dạy cho chúng tôi thế nào là sự im lặng”. Im lặng có nghĩa là cái chết đang rình rập đâu đây, nó ập đến bất cứ lúc nào. Ấy là những trái bom, mà “nghe tiếng bom đầu tiên, có đứa chết giấc, nằm dán xuống đất”. Nhưng, cái im lặng của không gian còn chưa đáng sợ bằng cái im lặng của lòng người. Đây là cái “vắng lặng đến phát sợ” của kẻ đi đêm sợ ma, yếu bóng vía. Đến với toạ độ chết, đến với quả bom cần phải phá nổ (mà không biết nó sẽ nổ vào lúc nào), sự cầu viện tâm linh của cô gái (nhân vật tôi) giống như một ảo ảnh “Các anh cao xạ có nhìn thấy chúng tôi không ?”. Mặc dù “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần”, nhưng cái hồi hộp vẫn dường như không hể thay đổi. Như cái cảm giác chờ bom phát nổ: tất cả đều đứng im, cả gió, cả nhịp tim trong lồng ngực. Chỉ có chiếc đồng hồ: “Nó chạy, sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh cửu…”. Còn sau mỗi lần bom nổ, như từ cõi chết trở về đây là gương mặt tươi tắn của chị Thao “Chị cười răng trắng, vết sẹo bóng lên, mảnh dù bay trên lưng…”, còn với Phương Định, cái chết chỉ là khái niệm “mờ nhạt, không cụ thể”. Tuy dặn mình phải cảnh giác với nó, nhưng không phải là sợ nó mà chỉ vì sợ nếu “mảnh bom ghim vào cánh tay thì khá phiền”. Còn khi tưởng là Nho đã chết, tất cả đều lặng đi với bao nhiêu tâm trạng trái ngược nhau. Kẻ muốn hát, người thì muốn khóc. Chị Thao muốn hát và chị đã hát, một bài hát có phần lạc lõng (“Đây Thăng Long, đây Đông Đô… Hà Nội”). Nhạc sai bét, còn giọng thì chua, nhưng tình cảm rất đỗi chân thành: ấy là một khúc thánh ca. Còn người thứ hai, thích hát, hát hay “nhưng không muốn hát lúc này” vì những bài hành khúc bộ đội hành quân hay quan họ mềm mại, nhưng với Phương Định, tất cả đều không đúng chỗ. Trước đau thương, cũng là trước cái đẹp, cái cao cả, cái vĩnh hằng, chưa có một bài ca nào diễn tả nổi.

    Về xây dựng nhân vật, tác giả rất lưu ý đến sự đa dạng. Mỗi nhân vật có những đặc điểm không giống nhau. Nho, mộc mạc và thơ mộng. Còn gì mộc mạc hơn, thậm chí vụng về hơn, trên cái gối nhỏ nhắn, màu trắng, Nho thêu những bông hoa cẩu thả và loè loẹt, những “đường viền to như dây thừng”, vì một lẽ đương nhiên “A, cho nó nối !”. Có đến hai chi tiết, hai lần miêu tả Nho ở dưới suối đi lên, và cả hai lần Nho đều rất đẹp. Lần thứ nhất: “Tóc ướt. Nước đọng từng giọt trong trên trán và trên mũi”. Lần thứ hai: “cứ quần áo ướt ngồi đòi ăn kẹo”. Cái thực của nhân vật gần với cái thực trong mơ, vì tất cả không liên quan gì đến sự căng thẳng ở chiến trường, nó thuộc về vĩnh cửu. Còn chị Thao giống như một sự phân thân. Là một người con gái rất sợ máu và vắt, cứ thấy máu và vắt là chị “nhắm mắt lại, mặt tái mét”, nhưng trước lúc “có chuyện”, trong khi Nho chụp cái mũ sắt lên đầu, chị Thao lại “móc bánh bích quy trong túi thong thả nhai”. Trước tình huống Nho có thể hi sinh, chị yêu cầu Định hát, nhưng có trời mới biết “những tình cảm gì đang quay cuồng” ở trong đầu con người giàu nghị lực ấy.

    Còn về sự đan cài giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn thể hiện trong tâm hồn người con gái như những trận mưa bóng mây chợt đi chợt đến, bất ngờ. Nó giống như những vì sao, những đốm sáng. Một mặt chiến trường là một nhận thức hiện thực, thậm chí hiện thực nghiệt ngã “ở đây là nơi mà tuổi trẻ chúng tôi đang lớn lên”, nhưng còn nỗi nhớ là hiện thực thứ hai, hiện thực tâm hồn “không lúc nào chúng tôi không nhớ về Hà Nội”, cả hai không tách rời nhau tạo được một thứ âm hưởng bè đôi rất giàu có chất thơ, là một trong những thành công của tác giả. Cái kết của truyện đẩy sự kết hợp trên đây đến mức thăng hoa. Một trận mưa đá bất ngờ trở thành nỗi nhớ “Mà tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố”. Nỗi nhớ ấy chính là sự nối dài, quá khứ, hôm nay và khát vọng mai sau. Những ngôi sao trong câu chuyện cổ tích, về những xứ sở thần tiên, trong bối cảnh của cuộc chiến tranh, nó giống như một huyền thoại có một sức mạnh diệu kì để con người đi tới với đôi cánh đang bay. Hiện thực và lãng mạn, âm điệu trữ tình bay bổng cứ toả ánh sáng ra từ đó, từ “Những ngôi sao xa xôi”.

    Bình luận
  2. Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, tuyến đường Trường Sơn đầy bom rơi đạn nổ đã trở thành con đường huyền thoại. Bởi nơi đây đã có những câu chuyện thần kì với những anh bộ đội hiên ngang anh dũng, những anh chiến sĩ lái xe ngang tàng, lẫm liệt mà nhà thơ Phạm Tiến Duật đã từng ca ngợi trong bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Câu chuyện thần kì đó còn là chuyện về những cô gái thanh niên xung phong vừa kiên cường dũng cảm trong chiến đấu vừa hồn nhiên, mơ mộng thật đáng yêu, đáng quý. Lấy cảm hứng từ đó, nhà văn Lê Minh Khuê đã sáng tác thành truyện ngắn đặc sắc “Những ngôi sao xa xôi”.

    Truyện được viết 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra ác liệt. Truyện Những ngôi sao xa xôi phản ánh chân thực tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong. Đó chính là những hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho phẩm chất cao quý của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vừa qua.

    Điều ta cảm nhận đầu tiên là hoàn cảnh sống và chiến đấu của họ. Họ là một tổ trinh sát mặt đường gồm ba người, hai cô gái rất trẻ là Phương Định và Nho. Còn chị Thao là tổ trưởng thì lớn tuổi hơn một chút. Họ ở trong một cái hang dưới chân cao điểm. Ở đó, máy bay Mỹ thường hay đánh phá dữ dội. Đường bị đánh “lở loét, màu đất đỏ trắng lẫn lộn”. Sự sống ở đây gần như bị hủy diệt “hai bên đường không có lá xanh, chỉ có những thân cây bị tước khô cháy”… Công việc của họ lại càng đặc biệt nguy hiểm. Họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch. Sau mỗi trận bom, họ phải lao ra trọng điểm “đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”. Đó là công việc mạo hiểm luôn phải đối mặt với cái chết, “thần chết là một tay không thích đùa. Hắn ở lẫn trong ruột những quả bom”. Nhưng với ba cô gái này, thì những công việc ấy đã trở thành công việc hằng ngày.

    Cả ba cô gái cô nào cũng đáng mến, đáng phục. Nhưng Phương Định là cô gái để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Phương Định là cô gái nhạy cảm, hồn nhiên, mơ mộng, thường sống với những kỉ niệm về Hà Nội. Là một cô gái Hà Nội, cô có một thời học sinh hồn nhiên, vô tư bên người mẹ trong những ngày thanh bình trước chiến tranh. Những kỉ niệm tuổi học trò luôn sống dậy trong lòng cô ngay giữa chiến trường dữ dội. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt. Cô vào chiến tranh ba năm. Đã quen với những thử thách và nguy hiểm, giáp mặt hằng ngày với cái chết, nhưng ở cô cũng như những đồng đội, không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng với những ước mơ về tương lai.

      Cô đọc cho trong vở , sai thì bảo mik

    Bình luận

Viết một bình luận