I. Lí thuyết: 1. Trình bày khái niệm: khoáng sản, quặng, mỏ khoáng sản? 2. Xét theo công dụng, người ta chia thành mấy loại khoáng sản? Thống kê từng loại khoáng sản và công dụng của chúng? 3. Quá trình hình thành mỏ nội sinh và mỏ ngoại sinh khác nhau như thế nào? 2 mỏ này được tạo thành do tác động của lực nào? II. Bài tập: 1. Địa phương em có nhiều khoáng sản nào? Có những công dụng nào? Xét theo công dụng là loại khoáng sản gì? Tìm hiểu về trữ lượng đã thăm dò, trữ lượng đang khai thác, trữ lượng chuẩn bị khai thác của khoáng sản đó bằng con số cụ thể ( ở Tỉnh QN). 2. Việc khai thác khoáng sản đó có ảnh hưởng gì đến môi trường ( không khí, đất, nước)? Ví dụ phân tích cụ thể từng tác hại? 3. Từ số liệu đã tìm ở trên, phân tích mối liên hệ giữa quá trình hình thành, trữ lượng thăm dò và khai thác khoáng sản rồi từ đó nêu ra giải pháp khai thác và sử dụng khoáng sản thế nào để nó không bị cạn kiệt?
Đáp án:
Giải thích các bước giải:
hoáng sản là từ Hán-Việt (chữ Hán giản thể: 矿产, chữ Hán phồn thể: 礦產, 礦産, 鑛產 hay 鑛産, bính âm: kuàng chǎn), trong đó theo Hán-Việt Thiều Chữu thì: 礦 (quáng/khoáng) nghĩa là quặng mỏ và phàm vật gì lấy ở mỏ ra đều gọi là quáng, người Việt quen đọc là khoáng, cũng dùng như 鑛 (khoáng, nghĩa là mỏ, các loài kim chưa thuộc gọi là khoáng) còn 產/産 nghĩa là nơi sinh ra.
Các dạng khoáng sản[sửa | sửa mã nguồn]
Theo mục đích và công dụng người ta chia ra thành các dạng khoáng sản sau[1]:
Dựa trên trạng thái vật lý phân ra:
Sự tích tụ của khoáng sản tạo ra các mỏ (hay còn gọi là khoáng sàng), còn trong trường hợp chiếm một diện tích lớn thì gọi là các vùng mỏ, bồn hay bể. Người ta cũng phân biệt các loại khoáng sản rắn, lỏng và khí.
Khoáng sản nằm trong lớp vỏ Trái Đất ở dạng tích tụ với các đặc trưng khác nhau (gân, mạch, cán, bướu, nham cán, vỉa, ổ, sa khoáng v.v.) [1].
Việc khai thác các khoáng sản gọi là khai khoáng.
Các dấu hiệu biểu hiện của tích tụ khoáng sản[sửa | sửa mã nguồn]
Trong quá trình thăm dò khoáng sản, người ta thường sử dụng các phương pháp như đào giếng, mương, hào, rãnh, các đường xẻ hay tiến hành khoan các lỗ khoan v.v. để bắt gặp thân quặng.
Diện tích phổ biến[sửa | sửa mã nguồn]
Theo diện tích phổ biến của khoáng sản, người ta chia ra như sau[1]:
Vùng, khu, bãi mỏ có thể lộ ra hoàn toàn trên bề mặt đất và được nói tới như là mỏ lộ thiên; nó cũng có thể bị phủ một phần bởi các loại đất đá khác nhau, thuộc về loại mỏ bán kín hoặc có thể bị vùi lấp hoàn toàn thì được xếp vào loại mỏ kín.
Các nhóm trữ lượng khoáng sản rắn theo giá trị kinh tế-thương mại[sửa | sửa mã nguồn]
Các trữ lượng khoáng sản rắn và hàm lượng của các thành phần hữu ích có trong chúng theo giá trị kinh tế được chia ra thành 2 nhóm chính, theo các kiểm định và tính toán riêng biệt[1]:
Các trữ lượng không cân đối được kiểm định và tính toán trong trường hợp, nếu các tính toán kinh tế-kỹ thuật đưa ra khả năng hoặc là bảo tồn nó trong lòng đất để khai thác sau này; hoặc chỉ ra sự hợp lý của việc vừa khai thác hiện tại vừa lưu giữ và bảo tồn để sử dụng trong tương lai.
Trong tính toán các trữ lượng không cân đối người ta chia chúng ra thành các tiểu thể loại, phụ thuộc vào nguyên nhân làm chúng trở thành không cân đối (kinh tế, kỹ thuật, kỹ thuật khai mỏ, sinh thái, môi trường v.v.).
Đánh giá tính chất cân đối của các trữ lượng khoáng sản được thực hiện trên cơ sở các luận chứng kinh tế-kỹ thuật chuyên môn, được thẩm định bởi các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau. Trong các luận chứng này cần phải dự kiến trước các phương pháp khai thác mỏ có hiệu quả nhất, đánh giá về mặt giá thành và đề xuất các tham số tiêu chuẩn, đảm bảo việc sử dụng đầy đủ và tổng hợp nhất đối với các trữ lượng, với sự tính toán tới các yêu cầu của luật pháp trong lĩnh vực bảo vệ và phục hồi môi trường-sinh thái trong và sau khi khai thác.
:
Giải thích các bước giải:
Dựa trên trạng thái vật lý phân ra:
Sự tích tụ của khoáng sản tạo ra các mỏ (hay còn gọi là khoáng sàng), còn trong trường hợp chiếm một diện tích lớn thì gọi là các vùng mỏ, bồn hay bể. Người ta cũng phân biệt các loại khoáng sản rắn, lỏng và khí.
Khoáng sản nằm trong lớp vỏ Trái Đất ở dạng tích tụ với các đặc trưng khác nhau (gân, mạch, cán, bướu, nham cán, vỉa, ổ, sa khoáng v.v.) [1].
Việc khai thác các khoáng sản gọi là khai khoáng.
Các dấu hiệu biểu hiện của tích tụ khoáng sản[sửa | sửa mã nguồn]
Trong quá trình thăm dò khoáng sản, người ta thường sử dụng các phương pháp như đào giếng, mương, hào, rãnh, các đường xẻ hay tiến hành khoan các lỗ khoan v.v. để bắt gặp thân quặng.
Diện tích phổ biến[sửa | sửa mã nguồn]
Theo diện tích phổ biến của khoáng sản, người ta chia ra như sau[1]:
Vùng, khu, bãi mỏ có thể lộ ra hoàn toàn trên bề mặt đất và được nói tới như là mỏ lộ thiên; nó cũng có thể bị phủ một phần bởi các loại đất đá khác nhau, thuộc về loại mỏ bán kín hoặc có thể bị vùi lấp hoàn toàn thì được xếp vào loại mỏ kín.
Các nhóm trữ lượng khoáng sản rắn theo giá trị kinh tế-thương mại[sửa | sửa mã nguồn]
Các trữ lượng khoáng sản rắn và hàm lượng của các thành phần hữu ích có trong chúng theo giá trị kinh tế được chia ra thành 2 nhóm chính, theo các kiểm định và tính toán riêng biệt[1]:
Các trữ lượng không cân đối được kiểm định và tính toán trong trường hợp, nếu các tính toán kinh tế-kỹ thuật đưa ra khả năng hoặc là bảo tồn nó trong lòng đất để khai thác sau này; hoặc chỉ ra sự hợp lý của việc vừa khai thác hiện tại vừa lưu giữ và bảo tồn để sử dụng trong tương lai.
Trong tính toán các trữ lượng không cân đối người ta chia chúng ra thành các tiểu thể loại, phụ thuộc vào nguyên nhân làm chúng trở thành không cân đối (kinh tế, kỹ thuật, kỹ thuật khai mỏ, sinh thái, môi trường v.v.).
Đánh giá tính chất cân đối của các trữ lượng khoáng sản được thực hiện trên cơ sở các luận chứng kinh tế-kỹ thuật chuyên môn, được thẩm định bởi các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau. Trong các luận chứng này cần phải dự kiến trước các phương pháp khai thác mỏ có hiệu quả nhất, đánh giá về mặt giá thành và đề xuất các tham số tiêu chuẩn, đảm bảo việc sử dụng đầy đủ và tổng hợp nhất đối với các trữ lượng, với sự tính toán tới các yêu cầu của luật pháp trong lĩnh vực bảo vệ và phục hồi môi trường-sinh thái trong và sau khi khai thác.