mĩ khác gì với các nước đồng minh sau thế chiến thứ 2
0 bình luận về “mĩ khác gì với các nước đồng minh sau thế chiến thứ 2”
Đồng Minh, được gọi làLiên Hiệp Quốcsau Tuyên ngôn ngày 1 tháng 1 năm 1942, là tên gọi một khối các quốc gia liên kết quân sự với nhau chống lạiphe Trụctrong cuộcChiến tranh thế giới thứ hai.Phe Đồng Minhđã thúc đẩy liên minh như một biện pháp kiểm soát sự bành trướng củaĐức,Nhật BảnvàÝ.
Khi cuộc chiến bùng nổ ngày 1 tháng 9 năm 1939, quân Đồng Minh lúc đó bao gồm các nướcAnh,Pháp,Ba Lan, cũng như cáclãnh thổ phụ thuộccủa các quốc gia đó, nhưẤn Độ thuộc Anh. Một số vùng lãnh thổ tự trị độc lập thuộcKhối thịnh vượng chung Anh:Úc,Canada,New ZealandvàNam Phicũng đã gia nhập phe này vài ngày sau đó. Ngoài ra, Hà Lan, Bỉ, Hy Lạp và Nam Tư đã gia nhập quân Đồng Minh khi nước Đức phát xít bắt đầu tiến hành cácchiến dịch xâm chiếm Bắc Âuvàvùng Balkan.Liên bang Xô viếtsau khi kí kếtHiệp ước Molotov – Ribbentrop, đã cùng với Đứctiến hành chiếm đóng Ba Lan, nhưng vẫn trung lập trong cuộc xung đột với phe Đồng Minh, Liên Xô chỉ gia nhập khối này vào tháng 6 năm 1941 khi Đức Quốc xãmở các cuộc tấn côngvào nước này.Hoa Kỳthì cung cấp các trang thiết bị, phương tiện chiến tranh và tiền bạc từ lâu, và chỉ chính thức nhảy vào cuộc chiến vào tháng 12 năm 1941 sau khi Nhật Bản bất ngờcác cuộc oanh tạc các căn cứ quân sựcủaMỹởHawaii. Trước đó,Trung Quốcđã có mộtcuộc chiến kéo dàivới nước Nhật đế quốc kể từsự kiện Lư Câu Kiềunăm 1937, nhưng chỉ chính thức gia nhập Đồng Minh vào năm 1941.
Liên minh quân sự này được chính thức hóa bởi bản Tuyên ngôn Liên Hợp Quốc từ ngày 1 tháng 1 năm 1942. Tuy nhiên, cái tên “Liên Hợp Quốc” hiếm khi được sử dụng để mô tả quân Đồng Minh trong các cuộc chiến tranh. Các nhà lãnh đạo thuộc khối “Tam cường Đồng Minh” lúc đó gồm Liên Xô, Anh và Hoa Kỳ đã kiểm soát chiến lược phe phái này; trong đó, quan hệ giữa Anh với Mỹ là đặc biệt gần gũi. Tam cường cùng với Trung Quốc được gọi là “người ủy trị của quyền lực thế giới”,[1]sau đó được công nhận là “Tứ cự đầu” của phe Đồng Minh trong Tuyên bố Liên Hợp Quốc[2]và sau là “Tứ cảnh sát” của Liên Hiệp Quốc. Sau khi cuộc thế chiến kết thúc, các quốc gia thuộc khối Đồng Minh xưa, nay trở thành nền tảng của tổ chứcLiên Hợp Quốchiện đại.[3]
Đồng Minh, được gọi làLiên Hiệp Quốcsau Tuyên ngôn ngày 1 tháng 1 năm 1942, là tên gọi một khối các quốc gia liên kết quân sự với nhau chống lạiphe Trụctrong cuộcChiến tranh thế giới thứ hai.Phe Đồng Minhđã thúc đẩy liên minh như một biện pháp kiểm soát sự bành trướng củaĐức,Nhật BảnvàÝ.
Khi cuộc chiến bùng nổ ngày 1 tháng 9 năm 1939, quân Đồng Minh lúc đó bao gồm các nướcAnh,Pháp,Ba Lan, cũng như cáclãnh thổ phụ thuộccủa các quốc gia đó, nhưẤn Độ thuộc Anh. Một số vùng lãnh thổ tự trị độc lập thuộcKhối thịnh vượng chung Anh:Úc,Canada,New ZealandvàNam Phicũng đã gia nhập phe này vài ngày sau đó. Ngoài ra, Hà Lan, Bỉ, Hy Lạp và Nam Tư đã gia nhập quân Đồng Minh khi nước Đức phát xít bắt đầu tiến hành cácchiến dịch xâm chiếm Bắc Âuvàvùng Balkan.Liên bang Xô viếtsau khi kí kếtHiệp ước Molotov – Ribbentrop, đã cùng với Đứctiến hành chiếm đóng Ba Lan, nhưng vẫn trung lập trong cuộc xung đột với phe Đồng Minh, Liên Xô chỉ gia nhập khối này vào tháng 6 năm 1941 khi Đức Quốc xãmở các cuộc tấn côngvào nước này.Hoa Kỳthì cung cấp các trang thiết bị, phương tiện chiến tranh và tiền bạc từ lâu, và chỉ chính thức nhảy vào cuộc chiến vào tháng 12 năm 1941 sau khi Nhật Bản bất ngờcác cuộc oanh tạc các căn cứ quân sựcủaMỹởHawaii. Trước đó,Trung Quốcđã có mộtcuộc chiến kéo dàivới nước Nhật đế quốc kể từsự kiện Lư Câu Kiềunăm 1937, nhưng chỉ chính thức gia nhập Đồng Minh vào năm 1941
Đồng Minh, được gọi là Liên Hiệp Quốc sau Tuyên ngôn ngày 1 tháng 1 năm 1942, là tên gọi một khối các quốc gia liên kết quân sự với nhau chống lại phe Trục trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Phe Đồng Minh đã thúc đẩy liên minh như một biện pháp kiểm soát sự bành trướng của Đức, Nhật Bản và Ý.
Khi cuộc chiến bùng nổ ngày 1 tháng 9 năm 1939, quân Đồng Minh lúc đó bao gồm các nước Anh, Pháp, Ba Lan, cũng như các lãnh thổ phụ thuộc của các quốc gia đó, như Ấn Độ thuộc Anh. Một số vùng lãnh thổ tự trị độc lập thuộc Khối thịnh vượng chung Anh: Úc, Canada, New Zealand và Nam Phi cũng đã gia nhập phe này vài ngày sau đó. Ngoài ra, Hà Lan, Bỉ, Hy Lạp và Nam Tư đã gia nhập quân Đồng Minh khi nước Đức phát xít bắt đầu tiến hành các chiến dịch xâm chiếm Bắc Âu và vùng Balkan. Liên bang Xô viết sau khi kí kết Hiệp ước Molotov – Ribbentrop, đã cùng với Đức tiến hành chiếm đóng Ba Lan, nhưng vẫn trung lập trong cuộc xung đột với phe Đồng Minh, Liên Xô chỉ gia nhập khối này vào tháng 6 năm 1941 khi Đức Quốc xã mở các cuộc tấn công vào nước này. Hoa Kỳ thì cung cấp các trang thiết bị, phương tiện chiến tranh và tiền bạc từ lâu, và chỉ chính thức nhảy vào cuộc chiến vào tháng 12 năm 1941 sau khi Nhật Bản bất ngờ các cuộc oanh tạc các căn cứ quân sự của Mỹ ở Hawaii. Trước đó, Trung Quốc đã có một cuộc chiến kéo dài với nước Nhật đế quốc kể từ sự kiện Lư Câu Kiều năm 1937, nhưng chỉ chính thức gia nhập Đồng Minh vào năm 1941.
Liên minh quân sự này được chính thức hóa bởi bản Tuyên ngôn Liên Hợp Quốc từ ngày 1 tháng 1 năm 1942. Tuy nhiên, cái tên “Liên Hợp Quốc” hiếm khi được sử dụng để mô tả quân Đồng Minh trong các cuộc chiến tranh. Các nhà lãnh đạo thuộc khối “Tam cường Đồng Minh” lúc đó gồm Liên Xô, Anh và Hoa Kỳ đã kiểm soát chiến lược phe phái này; trong đó, quan hệ giữa Anh với Mỹ là đặc biệt gần gũi. Tam cường cùng với Trung Quốc được gọi là “người ủy trị của quyền lực thế giới”,[1] sau đó được công nhận là “Tứ cự đầu” của phe Đồng Minh trong Tuyên bố Liên Hợp Quốc[2] và sau là “Tứ cảnh sát” của Liên Hiệp Quốc. Sau khi cuộc thế chiến kết thúc, các quốc gia thuộc khối Đồng Minh xưa, nay trở thành nền tảng của tổ chức Liên Hợp Quốc hiện đại.[3]
Đồng Minh, được gọi là Liên Hiệp Quốc sau Tuyên ngôn ngày 1 tháng 1 năm 1942, là tên gọi một khối các quốc gia liên kết quân sự với nhau chống lại phe Trục trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Phe Đồng Minh đã thúc đẩy liên minh như một biện pháp kiểm soát sự bành trướng của Đức, Nhật Bản và Ý.
Khi cuộc chiến bùng nổ ngày 1 tháng 9 năm 1939, quân Đồng Minh lúc đó bao gồm các nước Anh, Pháp, Ba Lan, cũng như các lãnh thổ phụ thuộc của các quốc gia đó, như Ấn Độ thuộc Anh. Một số vùng lãnh thổ tự trị độc lập thuộc Khối thịnh vượng chung Anh: Úc, Canada, New Zealand và Nam Phi cũng đã gia nhập phe này vài ngày sau đó. Ngoài ra, Hà Lan, Bỉ, Hy Lạp và Nam Tư đã gia nhập quân Đồng Minh khi nước Đức phát xít bắt đầu tiến hành các chiến dịch xâm chiếm Bắc Âu và vùng Balkan. Liên bang Xô viết sau khi kí kết Hiệp ước Molotov – Ribbentrop, đã cùng với Đức tiến hành chiếm đóng Ba Lan, nhưng vẫn trung lập trong cuộc xung đột với phe Đồng Minh, Liên Xô chỉ gia nhập khối này vào tháng 6 năm 1941 khi Đức Quốc xã mở các cuộc tấn công vào nước này. Hoa Kỳ thì cung cấp các trang thiết bị, phương tiện chiến tranh và tiền bạc từ lâu, và chỉ chính thức nhảy vào cuộc chiến vào tháng 12 năm 1941 sau khi Nhật Bản bất ngờ các cuộc oanh tạc các căn cứ quân sự của Mỹ ở Hawaii. Trước đó, Trung Quốc đã có một cuộc chiến kéo dài với nước Nhật đế quốc kể từ sự kiện Lư Câu Kiều năm 1937, nhưng chỉ chính thức gia nhập Đồng Minh vào năm 1941