Nêu suy nghĩ của em về mối quan hệ của việt nam và liên hợp quốc trong những năm gần đây

Nêu suy nghĩ của em về mối quan hệ của việt nam và liên hợp quốc trong những năm gần đây

0 bình luận về “Nêu suy nghĩ của em về mối quan hệ của việt nam và liên hợp quốc trong những năm gần đây”

  1. Việt Nam chính thức gia nhập Liên Hợp Quốc ngày 20/9/1977. Kể từ đó, quan hệ của Việt Nam với Liên Hợp Quốc không ngừng được phát triển theo hướng ngày càng sâu rộng và hiệu quả.

    Ngay sau khi tham gia Liên Hợp Quốc, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của các nước thành viên để Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 32 (1977) thông qua Nghị quyết 32/2 kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế viện trợ, giúp đỡ Việt Nam tái thiết sau chiến tranh.

    Mặt khác, chúng ta cũng tranh thủ được sự giúp đỡ về nguồn vốn, chất xám, kỹ thuật của Liên Hợp Quốc phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Liên Hợp Quốc trở thành một diễn đàn để Việt Nam triển khai các yêu cầu của chính sách đối ngoại. Vị thế và vai trò của Việt Nam tại Liên Hợp Quốc ngày càng được nâng cao.

    Việt Nam cũng đã chủ động và tích cực phối hợp với các nước Không liên kết và đang phát triển để đấu tranh và bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc như nguyên tắc về bình đẳng chủ quyền, không can thiệp công việc nội bộ các nước, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực… đồng thời bảo vệ lợi ích của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

    Sự phát triển của quan hệ Việt Nam và Liên Hợp Quốc có thể chia thành 4 giai đoạn cụ thể là:

    Giai đoạn 1977-1986: Trong giai đoạn này, Việt Nam vừa phải giải quyết những hậu quả nặng nề của chiến tranh, vừa phải tổ chức lại nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu và từng bước khôi phục sản xuất. LHQ đã tích cực giúp Việt Nam giải quyết những khó khăn nhiều mặt với tổng viện trợ đạt hơn 500 triệu USD. Các tổ chức tài trợ chính bao gồm: Chương trình Phát triển LHQ (UNDP), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Quỹ Dân số LHQ (UNFPA), Cao ủy LHQ về người tị nạn (UNHCR), và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Các tổ chức này đã hỗ trợ đáng kể cho đầu tư của Chính phủ Việt Nam về các hạng mục phát triển xã hội, tập trung cho giáo dục, y tế, chăm sóc, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, dân số và kế hoạch hóa gia đình.

    Hợp tác với LHQ đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho nâng cao trình độ công nghệ và thúc đẩy tiến bộ về khoa học-kỹ thuật ở Việt Nam, phục hồi và xây dựng mới một số cơ sở sản xuất, tăng cường năng lực phát triển. Đồng thời trong bối cảnh bao vây cấm vận, hợp tác với LHQ tạo điều kiện để ta tiếp cận được nguồn viện trợ của nhiều nước phương Tây.

    Giai đoạn 1986-1996: Đây là giai đoạn Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới, theo đó nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là đổi mới chính sách phát triển kinh tế-xã hội. Cho tới cuối những năm 1980, LHQ chiếm tới gần 60% tổng số viện trợ cho Việt Nam ngoài nguồn từ các nước xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, viện trợ không hoàn lại của LHQ cho Việt Nam đạt trên 630 triệu USD. Từ đầu những năm 1990, nhiều nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD), các tổ chức tài chính quốc tế và khu vực nối lại viện trợ cho Việt Nam nhưng LHQ vẫn chiếm 30% viện trợ kỹ thuật từ bên ngoài.

    Trong giai đoạn này, một số tổ chức đã nâng mức hỗ trợ như Quỹ Phát triển Nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa LHQ (UNESCO), Tổ chức Phát triển Công nghiệp LHQ (UNIDO). Một số tổ chức khác cũng bắt đầu có hoạt động viện trợ trực tiếp như Chương trình Kiểm soát Ma túy LHQ (UNDCP), Chương trình Môi trường LHQ (UNEP), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và thêm nhiều nước song phương cũng như các tổ chức tài chính tiền tệ như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á  (ADB) tham gia trong các loại hình dự án hỗn hợp đa-song phương.

    Các dự án hợp tác là nguồn hỗ trợ đáng kể cho Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng chính sách phát triển, nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan và trình độ cán bộ trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới; đồng thời LHQ tiếp tục có những đóng góp có giá trị đối với việc nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, phát triển nguồn nhân lực khoa học-kỹ thuật, và giải quyết các vấn đề xã hội khác của Việt Nam.

    Giai đoạn 1997-2011: Từ năm 1997 đến năm 2000, LHQ dành ưu tiên cho các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo và các chính sách xã hội; cải cách và quản lý phát triển; quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên; và điều phối viện trợ, quản lý Nhà nước và huy động nguồn lực.

    Trong thời kỳ hợp tác từ năm 2001 đến năm 2005, LHQ có ba ưu tiên chính là thúc đẩy hơn nữa cải cách, xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Theo đề nghị của Chính phủ Việt Nam, LHQ chuyển mạnh hướng hỗ trợ kỹ thuật sang hỗ trợ các biện pháp cải cách về chính sách và thể chế kinh tế, doanh nghiệp Nhà nước, hành chính công, luật pháp, lập kế hoạch đầu tư công, phát triển hệ thống ngân hàng, đồng thời mở rộng sang các lĩnh vực khác phòng chống HIV/AIDS và các bệnh hiểm nghèo; hỗ trợ thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, tổ chức hàng năm Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ v.v… Những ưu tiên chính trong giai đoạn này là thúc đẩy cải cách, tư vấn trong việc xây dựng mới hoặc sửa đổi nhiều bộ luật quan trọng, xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ thực hiện Chương trình 135, lồng ghép với việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), hỗ trợ trong các nỗ lực bảo vệ thiên nhiên, nâng cao nhận thức của người dân về môi trường, xây dựng chiến lược và chính sách, nâng cao năng lực quản lý tài nguyên thiên nhiên, quản lý môi trường và đa dạng sinh học. Trong giai đoạn 2006-2011, viện trợ của LHQ cho Việt Nam đạt trên 400 triệu USD.

    Thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, làm bạn với tất cả các nước, Việt Nam đã tranh thủ diễn đàn Liên Hợp Quốc làm cơ sở để tăng cường quan hệ với các tổ chức trong hệ thống LHQ, mở rộng quan hệ song phương và đa phương với các nước và tổ chức quốc tế. Hoạt động nổi bật nhất trong giai đoạn này là Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ làm Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2009. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia vào cơ quan quan trọng nhất của LHQ về hoà bình, an ninh quốc tế trong bối cảnh Hội đồng Bảo an phải xử lý khối lượng công việc đồ sộ do xuất hiện nhiều vấn đề an ninh phức tạp, thêm vào đó là những thách thức an ninh toàn cầu mới và tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu trầm trọng nhất lịch sử thế giới hiện đại.

    Việt Nam tích cực thương lượng và trở thành thành viên chính thức của Công ước Cấm Vũ khí Hoá học (CWC) năm 1998, tham gia đàm phán và là một trong những nước đầu tiên ký Hiệp ước Cấm thử Hạt nhân Toàn diện (CTBT) năm 1996, tham gia và trở thành thành viên của Hội nghị Giải trừ Quân bị (CD) năm 1996.

    Ngoài ra, Việt Nam sớm tham gia vào quá trình chuẩn bị cho các Hội nghị lớn như Hội nghị Kiểm điểm NPT 2000, 2005 và 2010; Hội nghị về chống buôn bán bất hợp pháp vũ khí nhỏ năm 2001, 2003…

    Việt Nam cũng tham gia đầy đủ và thực chất vào các cơ chế hoạch định chính sách của LHQ, giữ chức Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ năm 1997, Hội đồng Thống đốc IAEA (1991-1993, 1997-1999, 2003-2005), tham gia Hội đồng Kinh tế-Xã hội của LHQ (ECOSOC) (1998-2000).

    Việt Nam không chỉ thực hiện tốt nhiệm vụ thu hút viện trợ của các tổ chức phát triển LHQ mà còn chủ động xây dựng các hình thức hợp tác và tham gia của ta vào các tổ chức này. Mô hình hợp tác 3 bên (ban đầu giữa Việt Nam, FAO, Senegal về trồng lúa) đã được mở rộng và áp dụng rộng rãi, được coi là hình mẫu cho hợp tác Nam-Nam. Ta cũng chủ động tham gia sâu hơn vào hệ thống LHQ thông qua việc là thành viên Hội đồng chấp hành UNDP/UNFPA (nhiệm kỳ 2000-2002), Hội đồng Kinh tế-Xã hội (1998-2000), Ủy ban Phát triển Xã hội (2001-2004)… Hiện nay, Việt Nam đang tích cực phối hợp với các tổ chức phát triển LHQ thực hiện thí điểm sáng kiến “Một Liên hợp quốc”, được cộng đồng các nhà tài trợ đánh giá cao.

    Giai đoạn 2012-2017: Trong khuôn khổ Sáng kiến Thống nhất Hành động – Một LHQ (DaO), Chính phủ Việt Nam và LHQ đang tích cực phối hợp triển khai Kế hoạch chung tiếp theo của LHQ giai đoạn 2012-2016, phù hợp với dự thảo Kế hoạch Phát triển kinh tế xã hội (SEDP) và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội (SEDS) của Việt Nam. Kế hoạch chung này ưu tiên 3 lĩnh vực trọng tâm chính là: Chất lượng tăng trưởng; bảo trợ xã hội và tiếp cận các dịch vụ xã hội; tăng cường tiếng nói và nâng cao quản trị công.

    Sự hợp tác giữa Việt Nam và LHQ là một ví dụ điển hình về hợp tác phát triển giữa các nước thành viên LHQ cũng như về vai trò của LHQ trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo. Tuy tổng số tiền viện trợ của LHQ dành cho Việt Nam trong hơn 30 năm qua chỉ hơn 2 tỉ USD nhưng đã có ý nghĩa hết sức to lớn vì LHQ tập trung hỗ trợ nhiều lĩnh vực thiết yếu về phát triển kinh tế, xây dựng thể  chế, pháp luật, giải quyết nhiều vấn đề xã hội cấp bách. LHQ cũng đã hỗ trợ Việt Nam trong những giai đoạn khó khăn nhất sau chiến tranh trong điều kiện Việt Nam  bị bao vây, cấm vận. Sự hợp tác này đã đạt được những kết quả tốt và có tác dụng tích cực, đáp ứng được yêu cầu của Việt Nam về phát triển kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn. Những kết quả này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những nỗ lực chung của Việt Nam và LHQ trong việc khắc phục những mặt còn tồn tại, mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác hai bên, hỗ trợ tích cực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam và góp phần nâng cao vai trò của LHQ trong thời kỳ mới.

    Bình luận
  2. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên hợp quốc:

    – Việt Nam là thành viên chính thức thứ 149 của Liên hợp quốc ngày 20/9/1977.

    – Ngày 16/7/2007, Việt Nam lần đầu tiên trở thành ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, nhiệm kì 2008 – 2009 với số phiếu tán thành 96%.

    – Việt Nam đã thực hiện hiến chương của Liên hợp quốc nghiêm chỉnh và có nhiều đóng góp tích cực vào hoạt động của tổ chức này, nhờ đó vị trí và vai trò của Việt Nam trong Liên hợp quốc ngày càng được nâng cao.

    – Hiện nay, có nhiều tổ chức của Liên hợp quốc hoạt động có hiệu quả ở Việt Nam như: FAO (quỹ nông nghiệp và lương thực LHQ); ILO (tổ chức lao động quốc tế); UNDP (chương trình phát triển LHQ); UNESCO (tổ chức giáo dục, khoa học, văn hóa của LHQ);…

    Suy nghĩ của em (nhận xét, đánh giá): Từ khi Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc cho đến nay, Việt Nam luôn tuân thủ những nội quy, quy định của tổ chức. Có những đóng góp tích cực cho các hoạt động của tổ chức. Liên hợp quốc cũng giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trong phát triển kinh tế – xã hội và các vấn đề quốc tế,… Ngày nay, nhờ những hoạt động hiệu quả của Liên hợp quốc và chủ trương tôn trọng công ước luật biển của Liên hợp quốc, mà vấn đề Biển Đông ở Việt Nam được giải quyết một cách hòa bình. 

    Bình luận

Viết một bình luận