Nêu tình hình xã hội Việt Nam sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất
0 bình luận về “Nêu tình hình xã hội Việt Nam sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất”
* Nông nghiệp
– Pháp tập trung vốn đầu tư vào nông nghiệp, chủ yếu là trồng và khai thác cao su
– Năm 1927, số vốn đầu tư vào nông nghiệp lên tới 400 triệu phrăng, gấp nhiều lần vào thời kì trước chiến tranh.
– Diện tích trồng cao su tăng từ 15 ngàn hecta năm 1918 lên 120 ngàn hecta năm 1930.
– Nhiều công ty cao su ra đời.
* Công, thương nghiệp
– Tư bản Pháp chú trọng đến khai mỏ, chủ yếu là mỏ than.
– Các công ty than có từ trước đều được bỏ vốn thêm và hoạt động mạnh hơn.
– Nhiều công ty than mới nối tiếp nhau ra đời.
– Mở thêm một số cơ sở công nghiệp như các nhà máy sợi Hải Phòng, Nam Định, nhà máy rượu Hà Nội, Nam Đinh, Hà Đông, nhà máy diêm Hà Nội, Hàm Rồng, Bến Thủy, nhà máy đường Tuy Hòa, nhà máy xay xát gạo Chợ Lớn….
– Thương nghiệp phát triển hơn trước thời kì chiến tranh. Để năm chặt thị trường Việt Nam và Đông Dương, tư bản độc quyền Pháp đánh thuế nặng hàng hóa các nước nhập vào nước ta, chủ yếu là của Trung Quốc, Nhật Bản. Nhờ đó, hàng hóa của Pháp nhập vào Việt Nam tăng lên rất nhanh.
+ Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) nền kinh tế của nước Pháp bị tàn phá nặng nề. Để bù đắp những thiệt hại to lớn do chiến tranh Pháp đã ra sức tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước, đồng thời tăng cường đầu tư khai thác các thuộc địa đặc biệt là ở Việt Nam và Đông Dương.
+ Chính sách khai thác thuộc địa sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất của thực dân Pháp đã đưa tới những biến đổi về kinh tế và xã hội Việt Nam. Biến đổi về mặt xã hội là làm cho sự phân hoá giai cấp ở Việt Nam thêm nhanh chóng và sâu sắc hơn. Địa chủ phong kiến tăng lên về số lượng, nông dân thêm bần cùng hoá, công nhân đông hơn về số lượng, tư sản và tiểu tư sản ra đời.
* Nông nghiệp
– Pháp tập trung vốn đầu tư vào nông nghiệp, chủ yếu là trồng và khai thác cao su
– Năm 1927, số vốn đầu tư vào nông nghiệp lên tới 400 triệu phrăng, gấp nhiều lần vào thời kì trước chiến tranh.
– Diện tích trồng cao su tăng từ 15 ngàn hecta năm 1918 lên 120 ngàn hecta năm 1930.
– Nhiều công ty cao su ra đời.
* Công, thương nghiệp
– Tư bản Pháp chú trọng đến khai mỏ, chủ yếu là mỏ than.
– Các công ty than có từ trước đều được bỏ vốn thêm và hoạt động mạnh hơn.
– Nhiều công ty than mới nối tiếp nhau ra đời.
– Mở thêm một số cơ sở công nghiệp như các nhà máy sợi Hải Phòng, Nam Định, nhà máy rượu Hà Nội, Nam Đinh, Hà Đông, nhà máy diêm Hà Nội, Hàm Rồng, Bến Thủy, nhà máy đường Tuy Hòa, nhà máy xay xát gạo Chợ Lớn….
– Thương nghiệp phát triển hơn trước thời kì chiến tranh. Để năm chặt thị trường Việt Nam và Đông Dương, tư bản độc quyền Pháp đánh thuế nặng hàng hóa các nước nhập vào nước ta, chủ yếu là của Trung Quốc, Nhật Bản. Nhờ đó, hàng hóa của Pháp nhập vào Việt Nam tăng lên rất nhanh.
+ Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) nền kinh tế của nước Pháp bị tàn phá nặng nề. Để bù đắp những thiệt hại to lớn do chiến tranh Pháp đã ra sức tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước, đồng thời tăng cường đầu tư khai thác các thuộc địa đặc biệt là ở Việt Nam và Đông Dương.
+ Chính sách khai thác thuộc địa sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất của thực dân Pháp đã đưa tới những biến đổi về kinh tế và xã hội Việt Nam. Biến đổi về mặt xã hội là làm cho sự phân hoá giai cấp ở Việt Nam thêm nhanh chóng và sâu sắc hơn. Địa chủ phong kiến tăng lên về số lượng, nông dân thêm bần cùng hoá, công nhân đông hơn về số lượng, tư sản và tiểu tư sản ra đời.