phân biệt sự khác nhau giữa nền văn hóa đông sơn với văn hóa óc eo và văn hóa sa huỳnh
0 bình luận về “phân biệt sự khác nhau giữa nền văn hóa đông sơn với văn hóa óc eo và văn hóa sa huỳnh”
1-Địa bàn cư trú
Ba nền văn hóa cổ này có chung một lãnh thỗ thống nhất nhưng trong quá khứ chúng vốn là thuộc địa của những quốc gia khác nhau đã từng tồn tại trong lịch sử.
Văn hóa Đông Sơn là văn hóa đồng bằng, văn hóa lục địa, Địa bàn của nó nằm trong lưu vực của sông Hồng, sông Mã sông Cả mà phần lớn nằm trong vùng trung du và đồng bằng.
Văn hóa Sa Huỳnh là văn hóa duyên hải, văn hóa cảng thị nằm dọc theo dải đất ven biển miền Trung Việt Nam ngày nay trong lưu vực các con sông Thu Bồn và Trà Khúc rồi nằm dọc theo những bãi cát trắng và dải cát vàng ( sa huỳnh). Nó còn được gọi là Văn hóa Cồn Bầu vì được phát hiện vào năm 1909 ở vùng ven các bầu nước miền Trung..
Còn văn hóa Óc Eo nằm chủ yếu ở vùng trũng miền Tây sông Hậu gồm điạ bàn các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu…và một phần đất Đông Nam Campuchia.
2- Khu vực khí hậu
–Văn hóa Đông Sơn , Văn hóa Sa Huỳnh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Nhưng nền văn hóa Đông Sơn nằm trong khu vực thời tiết bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông của khí hậu tiền lục địa, Còn văn hóa Sa Huỳnh lại nằm trong khu vực hai mùa Mưa Nắng của khí hậu biển. Mưado tác động của bức chắn địa hình gió tín phong đem lại, mưa lớn ở tháng 10 và tháng11
Còn văn hóa Óc Eo có nhiệt độ cao đều trong năm nhất là ở Nam Bộ. Đây cũng là khu vực có phân biệt sâu sắc giữa mùa mưa và mùa khô.
Mùa mưa lớn do ảnh hưởng của áp thấp và bão tác động cùng với giải hội tụ nhiệt đới. Đầu mùa Hạ tháng 5 và tháng6 gió Tây Nam có nguồn gốc là khối khí nhiệt đới vịnh Bengan nóng ẩm thổi vào gây mưa đáng kể,mưa lớn t ừ tháng 9-t ới tháng 12.
Mùa khô nắng nóng được tạo nên do tác động của gió tín phong chiếm ưu thế về mùa Đông
3- Thủy văn
Văn hóa Đông Sơn thì nước sông chảy trong nội địa ngọt. Văn hóaSa Huỳnh thì nước sông nội địa ngọt nhưng nước biển mặn. Còn văn hóa Óc Eo thì nước sông nội địa ngọt
4 – Thời Đại
Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ carbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.Các bằng chứng khảo cổ qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức cho thấy văn hóa Sa Huỳnh có liên quan đến thời đại đồ đồng phân bố ở khu vực Miền Trung từ Đà Nẵng, Quảng Nam vào đến Bình Thuận.
Thời gian tồn tại của chúng kéo dài trong khoảng nửa sau của thiên nhiên kỷ thứ nhất trước công nguyên, vượt qua công nguyên và kéo dài khoảng vài ba thế kỷ sau đó rồi lụi tàn, nhường chỗ cho những thể chế chính trị – xã hội khác nhau ra đời và phát triển. Thời điểm kết thúc của văn hóa Sa Huỳnh, dựa trên những niên đại C14 ở một số khu mộ (…) Còn Văn hóa Óc Eo các nhà khảo cổ đã định niên đại cho từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ th ứ VII. Giai đoạn “hậu Oc Eo” từ thế kỷ VIII đến khoảng thế kỷ X – XII.
Văn hóa Đông Sơn thuộc cuối thời đại đồng thau . Thời kỳ này kỹ thuậtđúc đồng thau đã phát triển đạt trình độ đỉnh cao mà hiện vật tiêu biểu là trống đồng Đông Sơn. Văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ gốc gác với các nền văn hóa hậu kỳ đá mới, sơ kỳ thời đại đồng thau. rồitiến đến sơ kỳ đồ sắt, theo kết quả khảo cổ (1936) của người Pháp Côâlani (M. Colani)), và tồn tại trong khoảng nửa sau thiên niên kỉ 1 TCN đến đầu Công nguyên.. C òn Văn hóa Óc Eo ở vào thời đại cuốiđồ sắt
5- Về những dấu tích văn hóa
Cả ba nền văn hóa Đông Sơn ,Sa Huỳnh và Óc Eo chính là tiền đề để ra đời các quốc gia phong kiến hùng mạnh như Đại Việt, Chiêm Thành, Chân Lạp sau này. Cả ba nền văn hóa Đông Sơn Sa Huỳnh và Óc Eocũng không nằm ngoài qui luật. bước vào giai đoạn suy tàn như một tất yếu khách quan của lịch sử phát triển,
Dấu tích văn hóa của cả ba nền văn hóa được tìm thấy từ trong lòng đất,.Đặc trưng nổi bật chính là những ngôi mộ cổ:
-Di chỉ mộ thuyền của văn hoá Đông Sơn
Mộ thuyền được làm từ các thân cây gỗ lớn đục đẽo thành hình thuyền,.
Cây gỗ lớn được khoét lòng, đặt thi hài vào trong rồi chôn xuống đất. chôn ở độ sâu từ 0,5m đến 1,5m. Hình thức mộ thuyền chủ yếu là đơn táng, song táng (mẹ + con). Mộ thuyền được phát hiện ở những vùng đất phù sa, đầm lầy, có nền đất không cứng thuộc các đồng bằng châu thổ các con sông lớn ở phía Bắc như sông Hồng, sông Cả, sông Mã, hoặc trong các khu vực đồi gò nền đất cao của các vùng trung du.Di chỉ mộ thuyền khẳng định người Việt Cổ đã khai phá mạnh mẽ vùng đồng bằng, đầm lầy và phát triển hệ thống thủy lợi khá mạnh mẽ từ thế kỷ VII TCN đến thế kỷ I SCN
Một trong những di chỉ mộ thuyền khá nổi tiếng là mộ thuyền Châu Can(thuộc thôn Nội, xã Châu Can, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây cũ). Mộ được phát hiện từ năm 1974, nằm ở độ sâu 1,60mđến 2,20m. Trong khu mộ có tới 8 quan tài hình thuyền là các nửa thân cây gỗ khoét rỗng ghép lại đặt quay hướng Nam chếch Đông. Đây là những quan tài khá lớncó đường kính lên tới 0,5m, dài tới 2,32m. …
-Di chỉ mộ chum – vò của văn hoá Sa Huỳnh
Những di chỉ mộ chumvò từ Nam Đèo Ngang, tới Phan Rang, Phan Thiết, phổ biến nhất trong khu vực Quảng Nam, Quảng Ngãi. Những ngôi mộ chum vò thường được tìm thấy ở ven những cồn cát ven biển, bên những bàu nước ngọt hoặc trên những mảnh ruộng của đồng bằng ven biển hẹp, chạy dọc ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1906, Vinê (M. Vinet) thông báo về việc phát hiện một kho chum hơn 200 chiếc, cao trung bình 0,80 m, vùi sâu trong cồn cát ven biển Quảng Ngãi.). Thi hài ngươi chết được đưa vào chum gốm lớn và chôn dưới cát, được đặt ngồi hoặc đứng trong chum, tạo ra dáng ngồi khom như khi còn là bào thai nằm trong bụng mẹ.
Những mộ chum thườngở dưới lớp đất canh tác mỏng, có độ dày khoảng từ 0,2m đến 0,6m. Những chiếc chum có kích thước không đều nhau, chiều cao của chum mộ trong khoảng từ 0,5m đến 1,2m. , Chum hình cầu, hình trứng, hình trụ có kích thước lớn, nắp đậy hình nón cụt, lồng bàn…. Hầuhết các mộ chum đều có nắp đậy hình nón cụt Miệng chum vò hầu hết đều có nắp đậy để che chở, bảo vệ cho các di vật chứa trong đó., Về cơ bản, chum Sa Huỳnh có ba kiểu dáng sau đây
Loại 1: Thân chum thuôn hình ống, hơi phình ra ở vai, cổ thắt lại, miệng loe tạo thành một đường gấp khúc từ vai – cổ – miệng. Thân chum thường hơi thắt vào ở giữa, đáy hơi tròn dẹt. Trên thân chum thường có văn thừng dập.
Loại 2: Đáy chum hình trứng, vai hơi thuôn nhỏ lại, miệng loe.
Loại 3: Đáy chum hình cầu, cổ thắt lại, miệng thấp hơi loe.
Các chum Sa Huỳnh thường được làm từ đất sét pha cát, hạt to, xoa nhẵn ở phần vai, trên thân có trang trí văn thừng mịn.
Di chỉ mộ táng của văn hoá Óc Eo
Mộtáng là các huyệt mộ hình vuông, hình chữ nhật hay hình phễu, được xây bằng gạch đá bên trên ốp gạch hay lát đá tạo thành bề mặt khá bằng phẳng. Các khu mộ táng thuộc văn hóa Óc Eo được phát hiện tại nhiều địa phương dưới hai dạng: mộ gò và gò mộ
6. Những đồ tuỳ táng trong các ngôi mộ
Cư dân của ba nền văn hóa Đông SơnSa Huỳnh ,Óc Eo đều tin linh hồn vẫn sinh hoạt như lúc họ còn đang ở trên trần gian, Hiện vật trong các mộ của ba nền văn hóa về cơ bản đều có cả công cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức và đồ minh khí.Công cụ sản xuất phản ánh tín ngưỡng của cưdân thời đó vẫn còn mang nặng hình thức “chia của” cho người đã khuất. Vũ khí cho thấy vào thời đó đã xuất hiện sựxung đột giữa các tộc người, các cuộc chiến tranh đã xảy ra.. Các đồ minh khí chứng tỏ đời sống tinh thần của cộng đồng người trong ba nền văn hóa này đã tiến một bước dài trong đời sống tín ngưỡng của mình, đó là “đi từ hiện thực đến biểu tượng”. Điều đó chứng tỏ cư dân thời đó đã có tư duy khái quát cao trong ứng xử của những người sống với những người đã khuất.
Chi tiết về các hiện vật :
Tuỳ Táng văn hoá Đông Sơn
Công cụ sản xuất, vũ khí chiến đấu, và các đồ “minh khí“ bằng các chất liệu như gốm, kim loại, gỗ…, chủ yếu là hiện vật bằng đồng nên có thể gọi văn hóa Đông Sơn là văn hóa đồ đồng. Ngoài ra trong mộ còn cóxương, răng, tro than, di cốt của người nguyên thủy,đồ trang sức bằng chất liệu đồng, rất ít trang sức bằng vàng bạc, đá quí…, đặc biệt thấy xuất hiện đồ sơn màu nâu, đen, đỏ…
Trong quan tài mộ thuyền Châu Can có chứa nhiều hiện vật thu được như rìu, mũi giáo, mũi lao, khuyên tai, nồi gốm, ngoài ra còn nhiều hiện vật đồ gỗ, tre nứa và vải liệm.
Những di tích mộ táng như vậy được phát hiện ở Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây cũ, Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình ở đồng bằng vùng lưu vực sông sông Hồng, sông Mã, sông Cả.
Chi tiết về các hiện vật :
Tuỳ Táng văn hoá Sa Huỳnh
Đồ tuỳ táng gồm công cụ sản xuất, vũ khí thuộc các loại đồ gốm (đồ nấu, đựng), đồ sắt và đồ đồng, hoặc và đồtrang sức thuộc kim loại quí, đá quí như hạt cườm, mã não, thuỷ tinh.Công cụ sản xuất dùng sinh hoạt chôn theo người chết như nồi, bát, mâm bồng.v.v… Vũ khí chiến đấu như rìu, dao, kiếm, giáo, qua, mũi lao, thuổng. Đồ trang sức như các loại khuyên tai hai đầu thú hình dê, bò, khuyên tai hình vành khăn mỏng dẹt.v.v… Các vòng đeo tay và các chuỗi hạt với nhiều hình dáng vuông, năm cạnh, hình cầu, hình thoi, hình đốt trúc và nhiều nhất là loại cườm tấm với các màu xanh, đỏ, vàng trắng, đen tạo ra sự đa dạng, sinh động. ..
Chi tiết về các hiện vật :
Tuỳ Táng văn hoá Óc Eo
Các nhà khảo cổ học Việt đã phát hiện được trong các huyệt mộ có cát trắng lẫn nhiều hiện vật quý giá như các mảnh vàng chạm khắc những biểu tượng cuả Bàlamôn hay Phật giáo, đồ trang sức vàng, thuỷ tinh , mã não v à một số đồ tuỳ táng khác chẳng hạn bếp lò gốm từ thời tiền sử ở lưu vực sông Vàm Cỏ- Đồng Nai và trở thành di vật đặc trưng cuả văn hóa Óc Eo.
7- KimLoại và kỹ thuật chế tác, chạm khắc,
Hiện vật của ba nền văn hóa cho thấy cư dân của ba nền văn hóa đã đạt trình độ phát triển khá cao về mọi mặt của đời sống xã hội. Hiện vật không chỉ nói lên ý nghĩa vật chất mà còn thể hiện những quan niệm, ý tưởng về tinh thần mà các hiện vật hàm chứa
Văn hóa Đông Sơn
Hiện vật chủ yếu được chế tác bằng đồng, cụ thể là đồng thau,.
Trốngđồng được đúc bằng khuôn hai mảnh, rìa mặt trống còn để lại những dấu vết cách đều, đó là dấu vết con kê để căn đều chiều dày thành trống trên khuôn đúc. Để đúc thành công như vậy, thì người nghệ nhân phải đạt được hàng loạt các yêu cầu về kỹ thuật như phải có một nhiệt độ cao để nung chảy hợp kim đồng, phải tìm được vật liệu chịu lửa để làm khuôn đúc, phải nắm vững được tính năng vật lý hóa chất của mỗi kim loại trong hợp kim đồng, đặc biệt là phải có kỹ thuật đúc với tay nghề thành thạo. Quan sát hệ thống hoa văn dày đặc và tinh xảo trên trống Ngọc Lũ 1 và trống Hoàng Hạ có thể kết luận được xã hội Lạc Việt có những người thợ đúc lành nghề. Người văn hóa Đông Sơn xử dụngđồ trang sứcbằng đồng, chưa có bằng vàng,đá quí như mã não, ngọc bích, ngọc nê-phrít.
Đồ gốm:
Nghệ thuật nặn gốm bằng bàn xoay,dùng phương pháp tạo hình bằng cách đổ khuôn và nung trong lò kín chuyên dụng. Chất lượng gốm ngày càng cứng và ít thấm nước hơn, độ mịn ngày càng tăng. Các bình gốm ở phần miệng, rìa miệng, đoạn eo thắt ở cổ đều đặn, song song chạy quanh thân gốm, loại hình sản phẩm gốm phong phú, đa dạng.
Văn hóa Sa Huỳnh
Hiện vật trong chủ yếu là đồ sắt. và đồ trang sức bằng vàng,đá quí như mã não, ngọc bích, ngọc nê-phrít., hạt cườm, hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai: cả khuyên tai haiđầu thú và khuyên tai 3 mấu nhọn,
Kỹ thuật chế tạo đồ sắt chủ yếu bằng phương pháp rèn. Vv Đồ sắtchiếm lĩnh về cả số lượng lên tới hàng trăm chiếc, chủng loại đa dạng gồmrựa, dao quắm, giáo, mai, liềm, thuổng, kiếm ngắn, qua v..
Kỹ thuật nấu cát làm thủy tinh và dùng thủy tinh để chế tạo đồ trang sức (hạt cườm, hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai ba mấu hai đầu thú v.v.).Đặc biệt, đồ trang sức bằng thuỷ tinh đã xuất hiện khá nhiều .Thủy tinh nhân tạo là một thành tựu rực rỡ. Các cư dân dùng cát trắng để nấu thủy tinh làm bát lọ và đặc biệt những chuỗi hạt trang sức bằng thủy tinh mà sử sách Trung Quốc gọi là “Lưu li” gốc từ chữ Phạn làverulia từ đầu công nguyên. Đây là một trong những nơi làm ra thủy tinh nhân tạo sớm trên thế giới. Chúng không những đa dạng về kiểu dáng mà còn phong phú về màu sắc như xanh lơ, xanh đen, xanh lá mạ, xám, tím, đỏ và nâu. Sử Trung Hoa đã từng ghi chép về một chén thủy tinh xuất phát từ vùng đất này mà họ gọi là chén lưu ly với một sự trân trọng và khâm phục.
Người Sa Huỳnh là những con người có năng khiếu thẩm mỹ, rất khéo tay và có một mỹ cảm phát triển tuyệt vời. Họ rất ưa dùng đồ trang sức bằng những đồ do chính họ tự chế hoặc những hiện vật do giao lưu, trao đổi mà có.
Đồ gốm
Kỹ thuật dùng bàn xoay . Mầu gốm thường là vàng đỏ, nhiều khi có vệt đenbóng, có hoa văn chữ S có đệm tam giác, đường chấm hay đường in dấu răng vỏ sò. Phong cách tạo dáng gãy gấp khúc mạnh mẽ ở các điểm chuyển tiếp thuộc miệng, eo cổ, vai, tạo dáng cân phân theo tỉ lệ cân xứng ở ba phần miệng, thân và chân đế.
Ba nền văn hóa cổ này có chung một lãnh thỗ thống nhất nhưng trong quá khứ chúng vốn là thuộc địa của những quốc gia khác nhau đã từng tồn tại trong lịch sử.
Văn hóa Đông Sơn là văn hóa đồng bằng, văn hóa lục địa, Địa bàn của nó nằm trong lưu vực của sông Hồng, sông Mã sông Cả mà phần lớn nằm trong vùng trung du và đồng bằng.
Văn hóa Sa Huỳnh là văn hóa duyên hải, văn hóa cảng thị nằm dọc theo dải đất ven biển miền Trung Việt Nam ngày nay trong lưu vực các con sông Thu Bồn và Trà Khúc rồi nằm dọc theo những bãi cát trắng và dải cát vàng ( sa huỳnh). Nó còn được gọi là Văn hóa Cồn Bầu vì được phát hiện vào năm 1909 ở vùng ven các bầu nước miền Trung..
Còn văn hóa Óc Eo nằm chủ yếu ở vùng trũng miền Tây sông Hậu gồm điạ bàn các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu… và một phần đất Đông Nam Campuchia.
Văn hóa Đông SơnDựa theo những hình khắc trên trống đồng thì thấy người Việt cổ sống trênnhà sàn.Có thể nói nhà sàn là loại hình kiến trúc chủ yếu của người Lạc Việt.
Nhà có 2 cột chống ở hai đầu nhà và ở giữa nhà. Nhà có kê thang để lên sàn. Nhà có 2 loại hình lànhà sànmái tròn vànhà sànmái cong.
Nhà mái trònthường có một người (hoặc không có người) đứng giữa cửa, hai bên cửa có chắn phên. Nhà mái tròn có thể liên quan đến tín ngưỡng và tạm gọi là “nhà thờ“. Còn những ngôinhà có mái congnhư hình thuyền, ở hai góc mái có những đường hồi hoa văn trang trí. Nhiều người cho rằng đó là“nhà ở”
Văn hóa Sa Huỳnh
Các nhà khảo cổ không tìm thấy vết tích gì vềKiến trúcnhàcửa
Văn hoáÓc Eo
a/ Đền thápđược xây bằng vật liệu gồmgỗ, gạch, đávà đất sét. kỹ thuật xây nền và tườnggạchdày đặc và lắp ráp nhữngphiến đá granit lớn bằngmộng,chốt. Đền tháp được xây theo kiểu Ấn Độ có bình đồ hình vuông, nền móng dày đến hơn 1m,để có thể chịu lực cuả công trình đồ sộ bên trên
b/ Nhà ởđược làm bằng gỗhay xây dựng bằnggạch trên một nền móng vững chắc. Các toà nhà rộng hơn thì thường xây bằng gạch.Nơi cư trú đất thấp thì, cấtnhà sàn bằng gỗ trên một hệ thốngkênh đào. Dấu vết còn quan sát được trên các kênh đàotỏa rộng ở nhiều nơi trên đồng bằng châu thổ sông Cửu Long
1- Địa bàn cư trú
Ba nền văn hóa cổ này có chung một lãnh thỗ thống nhất nhưng trong quá khứ chúng vốn là thuộc địa của những quốc gia khác nhau đã từng tồn tại trong lịch sử.
Văn hóa Đông Sơn là văn hóa đồng bằng, văn hóa lục địa, Địa bàn của nó nằm trong lưu vực của sông Hồng, sông Mã sông Cả mà phần lớn nằm trong vùng trung du và đồng bằng.
Văn hóa Sa Huỳnh là văn hóa duyên hải, văn hóa cảng thị nằm dọc theo dải đất ven biển miền Trung Việt Nam ngày nay trong lưu vực các con sông Thu Bồn và Trà Khúc rồi nằm dọc theo những bãi cát trắng và dải cát vàng ( sa huỳnh). Nó còn được gọi là Văn hóa Cồn Bầu vì được phát hiện vào năm 1909 ở vùng ven các bầu nước miền Trung..
Còn văn hóa Óc Eo nằm chủ yếu ở vùng trũng miền Tây sông Hậu gồm điạ bàn các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu…và một phần đất Đông Nam Campuchia.
2- Khu vực khí hậu
–Văn hóa Đông Sơn , Văn hóa Sa Huỳnh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Nhưng nền văn hóa Đông Sơn nằm trong khu vực thời tiết bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông của khí hậu tiền lục địa, Còn văn hóa Sa Huỳnh lại nằm trong khu vực hai mùa Mưa Nắng của khí hậu biển. Mưado tác động của bức chắn địa hình gió tín phong đem lại, mưa lớn ở tháng 10 và tháng11
Còn văn hóa Óc Eo có nhiệt độ cao đều trong năm nhất là ở Nam Bộ. Đây cũng là khu vực có phân biệt sâu sắc giữa mùa mưa và mùa khô.
Mùa mưa lớn do ảnh hưởng của áp thấp và bão tác động cùng với giải hội tụ nhiệt đới. Đầu mùa Hạ tháng 5 và tháng6 gió Tây Nam có nguồn gốc là khối khí nhiệt đới vịnh Bengan nóng ẩm thổi vào gây mưa đáng kể,mưa lớn t ừ tháng 9-t ới tháng 12.
Mùa khô nắng nóng được tạo nên do tác động của gió tín phong chiếm ưu thế về mùa Đông
3- Thủy văn
Văn hóa Đông Sơn thì nước sông chảy trong nội địa ngọt. Văn hóaSa Huỳnh thì nước sông nội địa ngọt nhưng nước biển mặn. Còn văn hóa Óc Eo thì nước sông nội địa ngọt
4 – Thời Đại
Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ carbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.Các bằng chứng khảo cổ qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức cho thấy văn hóa Sa Huỳnh có liên quan đến thời đại đồ đồng phân bố ở khu vực Miền Trung từ Đà Nẵng, Quảng Nam vào đến Bình Thuận.
Thời gian tồn tại của chúng kéo dài trong khoảng nửa sau của thiên nhiên kỷ thứ nhất trước công nguyên, vượt qua công nguyên và kéo dài khoảng vài ba thế kỷ sau đó rồi lụi tàn, nhường chỗ cho những thể chế chính trị – xã hội khác nhau ra đời và phát triển. Thời điểm kết thúc của văn hóa Sa Huỳnh, dựa trên những niên đại C14 ở một số khu mộ (…) Còn Văn hóa Óc Eo các nhà khảo cổ đã định niên đại cho từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ th ứ VII. Giai đoạn “hậu Oc Eo” từ thế kỷ VIII đến khoảng thế kỷ X – XII.
Văn hóa Đông Sơn thuộc cuối thời đại đồng thau . Thời kỳ này kỹ thuậtđúc đồng thau đã phát triển đạt trình độ đỉnh cao mà hiện vật tiêu biểu là trống đồng Đông Sơn. Văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ gốc gác với các nền văn hóa hậu kỳ đá mới, sơ kỳ thời đại đồng thau. rồi tiến đến sơ kỳ đồ sắt, theo kết quả khảo cổ (1936) của người Pháp Côâlani (M. Colani)), và tồn tại trong khoảng nửa sau thiên niên kỉ 1 TCN đến đầu Công nguyên.. C òn Văn hóa Óc Eo ở vào thời đại cuối đồ sắt
5- Về những dấu tích văn hóa
Cả ba nền văn hóa Đông Sơn ,Sa Huỳnh và Óc Eo chính là tiền đề để ra đời các quốc gia phong kiến hùng mạnh như Đại Việt, Chiêm Thành, Chân Lạp sau này. Cả ba nền văn hóa Đông Sơn Sa Huỳnh và Óc Eocũng không nằm ngoài qui luật. bước vào giai đoạn suy tàn như một tất yếu khách quan của lịch sử phát triển,
Dấu tích văn hóa của cả ba nền văn hóa được tìm thấy từ trong lòng đất,.Đặc trưng nổi bật chính là những ngôi mộ cổ:
-Di chỉ mộ thuyền của văn hoá Đông Sơn
Mộ thuyền được làm từ các thân cây gỗ lớn đục đẽo thành hình thuyền,.
Cây gỗ lớn được khoét lòng, đặt thi hài vào trong rồi chôn xuống đất. chôn ở độ sâu từ 0,5m đến 1,5m. Hình thức mộ thuyền chủ yếu là đơn táng, song táng (mẹ + con). Mộ thuyền được phát hiện ở những vùng đất phù sa, đầm lầy, có nền đất không cứng thuộc các đồng bằng châu thổ các con sông lớn ở phía Bắc như sông Hồng, sông Cả, sông Mã, hoặc trong các khu vực đồi gò nền đất cao của các vùng trung du. Di chỉ mộ thuyền khẳng định người Việt Cổ đã khai phá mạnh mẽ vùng đồng bằng, đầm lầy và phát triển hệ thống thủy lợi khá mạnh mẽ từ thế kỷ VII TCN đến thế kỷ I SCN
Một trong những di chỉ mộ thuyền khá nổi tiếng là mộ thuyền Châu Can(thuộc thôn Nội, xã Châu Can, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây cũ). Mộ được phát hiện từ năm 1974, nằm ở độ sâu 1,60mđến 2,20m. Trong khu mộ có tới 8 quan tài hình thuyền là các nửa thân cây gỗ khoét rỗng ghép lại đặt quay hướng Nam chếch Đông. Đây là những quan tài khá lớncó đường kính lên tới 0,5m, dài tới 2,32m. …
-Di chỉ mộ chum – vò của văn hoá Sa Huỳnh
Những di chỉ mộ chum vò từ Nam Đèo Ngang, tới Phan Rang, Phan Thiết, phổ biến nhất trong khu vực Quảng Nam, Quảng Ngãi. Những ngôi mộ chum vò thường được tìm thấy ở ven những cồn cát ven biển, bên những bàu nước ngọt hoặc trên những mảnh ruộng của đồng bằng ven biển hẹp, chạy dọc ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1906, Vinê (M. Vinet) thông báo về việc phát hiện một kho chum hơn 200 chiếc, cao trung bình 0,80 m, vùi sâu trong cồn cát ven biển Quảng Ngãi.). Thi hài ngươi chết được đưa vào chum gốm lớn và chôn dưới cát, được đặt ngồi hoặc đứng trong chum, tạo ra dáng ngồi khom như khi còn là bào thai nằm trong bụng mẹ.
Những mộ chum thườngở dưới lớp đất canh tác mỏng, có độ dày khoảng từ 0,2m đến 0,6m. Những chiếc chum có kích thước không đều nhau, chiều cao của chum mộ trong khoảng từ 0,5m đến 1,2m. , Chum hình cầu, hình trứng, hình trụ có kích thước lớn, nắp đậy hình nón cụt, lồng bàn…. Hầuhết các mộ chum đều có nắp đậy hình nón cụt Miệng chum vò hầu hết đều có nắp đậy để che chở, bảo vệ cho các di vật chứa trong đó., Về cơ bản, chum Sa Huỳnh có ba kiểu dáng sau đây
Loại 1: Thân chum thuôn hình ống, hơi phình ra ở vai, cổ thắt lại, miệng loe tạo thành một đường gấp khúc từ vai – cổ – miệng. Thân chum thường hơi thắt vào ở giữa, đáy hơi tròn dẹt. Trên thân chum thường có văn thừng dập.
Loại 2: Đáy chum hình trứng, vai hơi thuôn nhỏ lại, miệng loe.
Loại 3: Đáy chum hình cầu, cổ thắt lại, miệng thấp hơi loe.
Các chum Sa Huỳnh thường được làm từ đất sét pha cát, hạt to, xoa nhẵn ở phần vai, trên thân có trang trí văn thừng mịn.
Di chỉ mộ táng của văn hoá Óc Eo
Mộ táng là các huyệt mộ hình vuông, hình chữ nhật hay hình phễu, được xây bằng gạch đá bên trên ốp gạch hay lát đá tạo thành bề mặt khá bằng phẳng. Các khu mộ táng thuộc văn hóa Óc Eo được phát hiện tại nhiều địa phương dưới hai dạng: mộ gò và gò mộ
6. Những đồ tuỳ táng trong các ngôi mộ
Cư dân của ba nền văn hóa Đông Sơn Sa Huỳnh ,Óc Eo đều tin linh hồn vẫn sinh hoạt như lúc họ còn đang ở trên trần gian, Hiện vật trong các mộ của ba nền văn hóa về cơ bản đều có cả công cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức và đồ minh khí. Công cụ sản xuất phản ánh tín ngưỡng của cưdân thời đó vẫn còn mang nặng hình thức “chia của” cho người đã khuất. Vũ khí cho thấy vào thời đó đã xuất hiện sựxung đột giữa các tộc người, các cuộc chiến tranh đã xảy ra.. Các đồ minh khí chứng tỏ đời sống tinh thần của cộng đồng người trong ba nền văn hóa này đã tiến một bước dài trong đời sống tín ngưỡng của mình, đó là “đi từ hiện thực đến biểu tượng”. Điều đó chứng tỏ cư dân thời đó đã có tư duy khái quát cao trong ứng xử của những người sống với những người đã khuất.
Chi tiết về các hiện vật :
Tuỳ Táng văn hoá Đông Sơn
Công cụ sản xuất, vũ khí chiến đấu, và các đồ “minh khí“ bằng các chất liệu như gốm, kim loại, gỗ…, chủ yếu là hiện vật bằng đồng nên có thể gọi văn hóa Đông Sơn là văn hóa đồ đồng. Ngoài ra trong mộ còn cóxương, răng, tro than, di cốt của người nguyên thủy, đồ trang sức bằng chất liệu đồng, rất ít trang sức bằng vàng bạc, đá quí…, đặc biệt thấy xuất hiện đồ sơn màu nâu, đen, đỏ…
Trong quan tài mộ thuyền Châu Can có chứa nhiều hiện vật thu được như rìu, mũi giáo, mũi lao, khuyên tai, nồi gốm, ngoài ra còn nhiều hiện vật đồ gỗ, tre nứa và vải liệm.
Những di tích mộ táng như vậy được phát hiện ở Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây cũ, Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình ở đồng bằng vùng lưu vực sông sông Hồng, sông Mã, sông Cả.
Chi tiết về các hiện vật :
Tuỳ Táng văn hoá Sa Huỳnh
Đồ tuỳ táng gồm công cụ sản xuất, vũ khí thuộc các loại đồ gốm (đồ nấu, đựng), đồ sắt và đồ đồng, hoặc v à đồ trang sức thuộc kim loại quí, đá quí như hạt cườm, mã não, thuỷ tinh.Công cụ sản xuất dùng sinh hoạt chôn theo người chết như nồi, bát, mâm bồng.v.v… Vũ khí chiến đấu như rìu, dao, kiếm, giáo, qua, mũi lao, thuổng. Đồ trang sức như các loại khuyên tai hai đầu thú hình dê, bò, khuyên tai hình vành khăn mỏng dẹt.v.v… Các vòng đeo tay và các chuỗi hạt với nhiều hình dáng vuông, năm cạnh, hình cầu, hình thoi, hình đốt trúc và nhiều nhất là loại cườm tấm với các màu xanh, đỏ, vàng trắng, đen tạo ra sự đa dạng, sinh động. ..
Chi tiết về các hiện vật :
Tuỳ Táng văn hoá Óc Eo
Các nhà khảo cổ học Việt đã phát hiện được trong các huyệt mộ có cát trắng lẫn nhiều hiện vật quý giá như các mảnh vàng chạm khắc những biểu tượng cuả Bàlamôn hay Phật giáo, đồ trang sức vàng, thuỷ tinh , mã não v à một số đồ tuỳ táng khác chẳng hạn bếp lò gốm từ thời tiền sử ở lưu vực sông Vàm Cỏ- Đồng Nai và trở thành di vật đặc trưng cuả văn hóa Óc Eo.
7- KimLoại và kỹ thuật chế tác, chạm khắc,
Hiện vật của ba nền văn hóa cho thấy cư dân của ba nền văn hóa đã đạt trình độ phát triển khá cao về mọi mặt của đời sống xã hội. Hiện vật không chỉ nói lên ý nghĩa vật chất mà còn thể hiện những quan niệm, ý tưởng về tinh thần mà các hiện vật hàm chứa
Văn hóa Đông Sơn
Hiện vật chủ yếu được chế tác bằng đồng, cụ thể là đồng thau,.
Trống đồng được đúc bằng khuôn hai mảnh, rìa mặt trống còn để lại những dấu vết cách đều, đó là dấu vết con kê để căn đều chiều dày thành trống trên khuôn đúc. Để đúc thành công như vậy, thì người nghệ nhân phải đạt được hàng loạt các yêu cầu về kỹ thuật như phải có một nhiệt độ cao để nung chảy hợp kim đồng, phải tìm được vật liệu chịu lửa để làm khuôn đúc, phải nắm vững được tính năng vật lý hóa chất của mỗi kim loại trong hợp kim đồng, đặc biệt là phải có kỹ thuật đúc với tay nghề thành thạo. Quan sát hệ thống hoa văn dày đặc và tinh xảo trên trống Ngọc Lũ 1 và trống Hoàng Hạ có thể kết luận được xã hội Lạc Việt có những người thợ đúc lành nghề. Người văn hóa Đông Sơn xử dụng đồ trang sứcbằng đồng, chưa có bằng vàng, đá quí như mã não, ngọc bích, ngọc nê-phrít.
Đồ gốm:
Nghệ thuật nặn gốm bằng bàn xoay,dùng phương pháp tạo hình bằng cách đổ khuôn và nung trong lò kín chuyên dụng. Chất lượng gốm ngày càng cứng và ít thấm nước hơn, độ mịn ngày càng tăng. Các bình gốm ở phần miệng, rìa miệng, đoạn eo thắt ở cổ đều đặn, song song chạy quanh thân gốm, loại hình sản phẩm gốm phong phú, đa dạng.
Văn hóa Sa Huỳnh
Hiện vật trong chủ yếu là đồ sắt. và đồ trang sức bằng vàng, đá quí như mã não, ngọc bích, ngọc nê-phrít., hạt cườm, hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai: cả khuyên tai haiđầu thú và khuyên tai 3 mấu nhọn,
Kỹ thuật chế tạo đồ sắt chủ yếu bằng phương pháp rèn. Vv Đồ sắtchiếm lĩnh về cả số lượng lên tới hàng trăm chiếc, chủng loại đa dạng gồmrựa, dao quắm, giáo, mai, liềm, thuổng, kiếm ngắn, qua v..
Kỹ thuật nấu cát làm thủy tinh và dùng thủy tinh để chế tạo đồ trang sức (hạt cườm, hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai ba mấu hai đầu thú v.v.).Đặc biệt, đồ trang sức bằng thuỷ tinh đã xuất hiện khá nhiều . Thủy tinh nhân tạo là một thành tựu rực rỡ. Các cư dân dùng cát trắng để nấu thủy tinh làm bát lọ và đặc biệt những chuỗi hạt trang sức bằng thủy tinh mà sử sách Trung Quốc gọi là “Lưu li” gốc từ chữ Phạn làverulia từ đầu công nguyên. Đây là một trong những nơi làm ra thủy tinh nhân tạo sớm trên thế giới. Chúng không những đa dạng về kiểu dáng mà còn phong phú về màu sắc như xanh lơ, xanh đen, xanh lá mạ, xám, tím, đỏ và nâu. Sử Trung Hoa đã từng ghi chép về một chén thủy tinh xuất phát từ vùng đất này mà họ gọi là chén lưu ly với một sự trân trọng và khâm phục.
Người Sa Huỳnh là những con người có năng khiếu thẩm mỹ, rất khéo tay và có một mỹ cảm phát triển tuyệt vời. Họ rất ưa dùng đồ trang sức bằng những đồ do chính họ tự chế hoặc những hiện vật do giao lưu, trao đổi mà có.
Đồ gốm
Kỹ thuật dùng bàn xoay . Mầu gốm thường là vàng đỏ, nhiều khi có vệt đen bóng, có hoa văn chữ S có đệm tam giác, đường chấm hay đường in dấu răng vỏ sò. Phong cách tạo dáng gãy gấp khúc mạnh mẽ ở các điểm chuyển tiếp thuộc miệng, eo cổ, vai, tạo dáng cân phân theo tỉ lệ cân xứng ở ba phần miệng, thân và chân đế.
1- Địa bàn cư trú
Ba nền văn hóa cổ này có chung một lãnh thỗ thống nhất nhưng trong quá khứ chúng vốn là thuộc địa của những quốc gia khác nhau đã từng tồn tại trong lịch sử.
Văn hóa Đông Sơn là văn hóa đồng bằng, văn hóa lục địa, Địa bàn của nó nằm trong lưu vực của sông Hồng, sông Mã sông Cả mà phần lớn nằm trong vùng trung du và đồng bằng.
Văn hóa Sa Huỳnh là văn hóa duyên hải, văn hóa cảng thị nằm dọc theo dải đất ven biển miền Trung Việt Nam ngày nay trong lưu vực các con sông Thu Bồn và Trà Khúc rồi nằm dọc theo những bãi cát trắng và dải cát vàng ( sa huỳnh). Nó còn được gọi là Văn hóa Cồn Bầu vì được phát hiện vào năm 1909 ở vùng ven các bầu nước miền Trung..
Còn văn hóa Óc Eo nằm chủ yếu ở vùng trũng miền Tây sông Hậu gồm điạ bàn các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu… và một phần đất Đông Nam Campuchia.
Văn hóa Đông SơnDựa theo những hình khắc trên trống đồng thì thấy người Việt cổ sống trên nhà sàn. Có thể nói nhà sàn là loại hình kiến trúc chủ yếu của người Lạc Việt.
Nhà có 2 cột chống ở hai đầu nhà và ở giữa nhà. Nhà có kê thang để lên sàn. Nhà có 2 loại hình là nhà sàn mái tròn và nhà sàn mái cong.
Nhà mái tròn thường có một người (hoặc không có người) đứng giữa cửa, hai bên cửa có chắn phên. Nhà mái tròn có thể liên quan đến tín ngưỡng và tạm gọi là “nhà thờ“. Còn những ngôi nhà có mái cong như hình thuyền, ở hai góc mái có những đường hồi hoa văn trang trí. Nhiều người cho rằng đó là “nhà ở”
Văn hóa Sa Huỳnh
Các nhà khảo cổ không tìm thấy vết tích gì về Kiến trúc nhà cửa
Văn hoá Óc Eo
a/ Đền tháp được xây bằng vật liệu gồm gỗ, gạch, đá và đất sét. kỹ thuật xây nền và tường gạch dày đặc và lắp ráp những phiến đá granit lớn bằng mộng, chốt. Đền tháp được xây theo kiểu Ấn Độ có bình đồ hình vuông, nền móng dày đến hơn 1m, để có thể chịu lực cuả công trình đồ sộ bên trên
b/ Nhà ở được làm bằng gỗ hay xây dựng bằng gạch trên một nền móng vững chắc. Các toà nhà rộng hơn thì thường xây bằng gạch .Nơi cư trú đất thấp thì, cất nhà sàn bằng gỗ trên một hệ thống kênh đào. Dấu vết còn quan sát được trên các kênh đào tỏa rộng ở nhiều nơi trên đồng bằng châu thổ sông Cửu Long