Phân tích sản phẩm sau quang hợp ở cây đậu tương và lúa ̣̣̣̣

Phân tích sản phẩm sau quang hợp ở cây đậu tương và lúa ̣̣̣̣

0 bình luận về “Phân tích sản phẩm sau quang hợp ở cây đậu tương và lúa ̣̣̣̣”

  1. Nghiên cứu này nhằm đánh giá (i) đặc tính quang hợp và tích luỹ chất khô của dòng lúa ngắn ngày mới chọn
    tạo DCG66 trên các mức đạm bón khác nhau trong điều kiện nhà lưới ở vụ xuân 2013 tại trường Đại học Nông
    nghiệp Hà Nội và (ii) đánh giá năng suất của dòng lúa này trên các mức đạm và mật độ cấy khác nhau trong vụ xuân
    2013 và vụ mùa 2013 tại Thái Nguyên và Lào Cai. Thí nghiệm trong chậu tại Đại học Nông nghiệp Hà Nội gồm hai
    công thức bón đạm là N1 (0,5 gN/chậu) và N2 (1,0 gN/chậu), giống Khang Dân 18 (KD18) được sử dụng làm đối
    chứng. Thí nghiệm đồng ruộng tại Thái Nguyên và Lào Cai bao gồm 4 công thức bón đạm là P1 (80 kgN/ha), P2
    (100 kgN/ha), P3 (120 kgN/ha) và P4 (140 kgN/ha) và 3 công thức mật độ cấy là M1 (25 khóm/m2
    ), M2 (35 khóm/m2
    )
    và M3 (45 khóm/m2
    ). Kết quả thí nghiệm trong chậu cho thấy số nhánh đẻ tối đa của dòng DCG66 tương đương với
    giống đối chứng KD18, tuy nhiên diện tích lá của dòng DCG66 cao hơn so với KD18 trên cả hai mức đạm bón.
    Cường độ quang hợp (CĐQH) của DCG66 tương đương với KD18 ở giai đoạn đẻ nhánh nhưng lại cao hơn KD18 ở
    giai đoạn sau trỗ ở cả 2 công thức bón đạm. So với KD18, CĐQH của DCG66 có tương quan thuận và chặt hơn với
    độ dẫn khí khổng ở giai đoạn đẻ nhánh và cũng tương quan thuận, chặt hơn với hàm lượng đạm trong lá ở giai đoạn
    sau trỗ. Ở giai đoạn đẻ nhánh, khối lượng chất khô (KLCK) của DCG66 cao hơn so với KD18 ở cả hai mức đạm bón
    do có KLCK ở các bộ phận rễ, thân và lá đều cao hơn giống đối chứng. Ở giai đoạn sau trỗ, tuy KLCK của DCG66
    tương đương với KD18 nhưng KLCK ở lá và bông của DCG66 lại cao hơn so với KD18. Năng suất cá thể của
    DCG66 tương đương với KD18 ở công thức N1 nhưng cao hơn KD18 ở công thức N2 do có số hạt trên bông cao
    hơn. Kết quả thí nghiệm đồng ruộng cho thấy năng suất của DCG66 đạt cao nhất ở công thức P3M2 tại Thái Nguyên
    (63,3 tạ/ha trong vụ xuân và 70,3 tạ/ha trong vụ mùa) và công thức P2M3 tại Lào Cai (62,4 tạ/ha trong vụ xuân và
    64,9 tạ/ha trong vụ mùa).
    Từ khóa: Chất khô tích luỹ, đạm, lúa ngắn ngày, năng suất, quang hợp

    Bình luận

Viết một bình luận