Phân tích tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
0 bình luận về “Phân tích tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích”
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc là danh nhân văn hóa thế giới. Nhắc đến ông, người ta kể đến ” Truyện Kiều”- một tác phẩm đã nâng Tiếng Việt lên thành ngôn ngữ dân tộc. Và có đọc tám câu thơ cuối của đoạn ” Kiều ở lầu Ngưng Bích” ta mới cảm nhận được nét tinh tế của bút pháp tài ba của Nguyễn Du, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tám câu thơ đã diễn tả tâm trạng cô đơn buồn tủi, tuyệt vọng của Kiều.
Sống trong lầu Ngưng Bích không khác gì đang bị giam lỏng, Kiều một mình bơ vơ, chơ chọi giữa không gian mênh mông.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng, cánh buồm xa xa”
Cửa bể là không gian biển khơi mênh mông, lại đặt trong thời gian chiều tà. Không gian và thời gian đã gợi nỗi vắng vẻ, mang một chút đượm buồn. Cảnh chiều hôm giữa không gian bao la ấy có một cánh buồm lẻ loi, lúc ẩn lúc hiện ” thấp thoáng” đã gợi lên cho ta sự lưu lạc tha hương cùng với nỗi buồn da diết của đứa con nơi ” đất khách quê người”.
Trong không gian vô định kia, Kiều như nhìn thấy cánh hoa trôi và nghĩ đến thân phận mình hiện tại của mình:
“Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trời man mác biết là về đâu”
Không gian nơi đây không chỉ mênh mông mà nó còn mạnh mẽ dữ dội khiến cho cánh hoa trôi nổi trên mặt nước. Đó cũng chính là cuộc đời của Kiều trôi nổi giữa dòng đời.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Hai câu thơ đã cho thấy tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều đã nâng lên thành tâm trạng tuyệt vọng, bế tắc. Cảnh “nội cỏ rầu rầu” đã gợi sự héo úa, tàn lụi. Đó không phải là một màu xanh của tự nhiên mà là một màu của sự u buồn càng làm cho Thúy Kiều thêm chán ngán, vô vọng.
Hai câu thơ cuối có thể coi là bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến đỉnh điểm. Âm thanh duy nhất xuất hiện gắn với sự mạnh mẽ.
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Tất cả những sự vật này nhưu chế độ phong kiến luon luôn bao quanh và vùi dập cuộc đời của Kiều vậy. Nó không làm cho không gian vang động hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều.
Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cùng biện pháp tu từ điệp ngữ ” buồn trông” đã gợi nỗi buồn điệp trùng, triền miên, tạo âm hưởng của một bản nhạc buồn. Ngaoì ra, Nguyễn Du cũng rất thành công trong việc sử dụng hàng loạt từ láy ” thấp thoáng” , ” xa xa” ” man mác” “rầu rầu” ” xanh xanh” ” ầm ầm” đứng ở cuối câu tạo nên nhịp điệu trầm và đã diễn tả sâu sắc tâm trạng đau thương, buồn thảm của Kiều.
Tóm lại, tám câu cuối bài ” Kiều ở Lầu Ngưng Bích” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng về số phận và cuộc đời của Thúy Kiều trong lầu Ngưng Bích.
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc là danh nhân văn hóa thế giới. Nhắc đến ông, người ta kể đến ” Truyện Kiều”- một tác phẩm đã nâng Tiếng Việt lên thành ngôn ngữ dân tộc. Và có đọc tám câu thơ cuối của đoạn ” Kiều ở lầu Ngưng Bích” ta mới cảm nhận được nét tinh tế của bút pháp tài ba của Nguyễn Du, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tám câu thơ đã diễn tả tâm trạng cô đơn buồn tủi, tuyệt vọng của Kiều.
Sống trong lầu Ngưng Bích không khác gì đang bị giam lỏng, Kiều một mình bơ vơ, chơ chọi giữa không gian mênh mông.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng, cánh buồm xa xa”
Cửa bể là không gian biển khơi mênh mông, lại đặt trong thời gian chiều tà. Không gian và thời gian đã gợi nỗi vắng vẻ, mang một chút đượm buồn. Cảnh chiều hôm giữa không gian bao la ấy có một cánh buồm lẻ loi, lúc ẩn lúc hiện ” thấp thoáng” đã gợi lên cho ta sự lưu lạc tha hương cùng với nỗi buồn da diết của đứa con nơi ” đất khách quê người”.
Trong không gian vô định kia, Kiều như nhìn thấy cánh hoa trôi và nghĩ đến thân phận mình hiện tại của mình:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trời man mác biết là về đâu”
Không gian nơi đây không chỉ mênh mông mà nó còn mạnh mẽ dữ dội khiến cho cánh hoa trôi nổi trên mặt nước. Đó cũng chính là cuộc đời của Kiều trôi nổi giữa dòng đời.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Hai câu thơ đã cho thấy tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều đã nâng lên thành tâm trạng tuyệt vọng, bế tắc. Cảnh “nội cỏ rầu rầu” đã gợi sự héo úa, tàn lụi. Đó không phải là một màu xanh của tự nhiên mà là một màu của sự u buồn càng làm cho Thúy Kiều thêm chán ngán, vô vọng.
Hai câu thơ cuối có thể coi là bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến đỉnh điểm. Âm thanh duy nhất xuất hiện gắn với sự mạnh mẽ.
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Tất cả những sự vật này nhưu chế độ phong kiến luon luôn bao quanh và vùi dập cuộc đời của Kiều vậy. Nó không làm cho không gian vang động hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều.
Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cùng biện pháp tu từ điệp ngữ ” buồn trông” đã gợi nỗi buồn điệp trùng, triền miên, tạo âm hưởng của một bản nhạc buồn. Ngaoì ra, Nguyễn Du cũng rất thành công trong việc sử dụng hàng loạt từ láy ” thấp thoáng” , ” xa xa” ” man mác” “rầu rầu” ” xanh xanh” ” ầm ầm” đứng ở cuối câu tạo nên nhịp điệu trầm và đã diễn tả sâu sắc tâm trạng đau thương, buồn thảm của Kiều.
Tóm lại, tám câu cuối bài ” Kiều ở Lầu Ngưng Bích” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng về số phận và cuộc đời của Thúy Kiều trong lầu Ngưng Bích.