phân tích tâm trạng ng chinh phụ trong tp Tình cảnh lẻ loi của ng chinh phụ (LM DÀN Ý , CẦN GẤP)

phân tích tâm trạng ng chinh phụ trong tp Tình cảnh lẻ loi của ng chinh phụ
(LM DÀN Ý , CẦN GẤP)

0 bình luận về “phân tích tâm trạng ng chinh phụ trong tp Tình cảnh lẻ loi của ng chinh phụ (LM DÀN Ý , CẦN GẤP)”

  1. DÀN Ý

    1. Mở bài:

    – Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn viết bằng chữ Hán, được sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kir XVIII, khi xã hội phong kiến nước ta đang lâm vào tinh trạng rối ren, khồng hoảng. Nội chiến xảy ra liên miên. Nông dân nổi dậy khắp nơ chống lại triều đình. Cảnh sinh li tử biệt, đau thương tang tóc xảy ra hằng ngày…

    – Chinh phụ ngâm của Đặng Trần cỏn ra đời đã nhận được sự đổng cảm rộng rả của táng lớp Nho sĩ. Nhiều người dịch tác phầm sang chữ Nôm. Bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm là thành công hơn cả.Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ căm ghét, lên án chiến tranh phi nghĩa, đề cao quyển sống cùng khát vọng hạnh phúc của con người. Đoạn trích Tình cảnh lổ loi của người chinh phụ từ câu 193 đến câu 228 miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ trong tâm trạng người chinh phụ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.

    2. Thản bài:

    * Bố cục đoạn trích gồm ba đoạn nhỏ:

    – Đoạn 1 : Từ đầu… đến phím loan ngại chùng: Nỗi cô đơn của người chinh phu trong tinh cảnh lẻ loi…

    – Đoạn 2: Tiếp theo… đến chuông chùa nện khơi: Nỗi nhớ thương người chổng ở phương xa. 

    – Đoạn 3: Còn lại: Trong lòng người chinh phụ rạo rực niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi.

    * Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong tinh cảnh lẻ loi:

    – Khắc khoải mong chờ: Dạo hiên vẳng thầm gieo từng bước; bốn chồn sốt ruột: Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

    – Lúc nào và ở đâu nàng cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài hiên vắng, trong phòng khuê… Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng.

    – Khát khao được đồng cảm: Người chinh phụ trách chim thước chẳng chịu mách tin. Lúc đầu, nàng nghĩ may ra chỉ có ngọn dèn biết tâm sự của minh, sau lại nghĩ đèn có biết thì cũng bằng không. Nỗi sầu thương không được san sè nên lòng nàng càng bi thiết.

    – Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và ngồi một mình với ngọn đèn trong phòng đã cực tả nỗi cô đơn trong tình cảnh lẻ loi.

    – Từ câu 9 đến câu 12 : Đêm khuya, nghe tiếng gà gáy báo tửng trống canh, người chinh phụ không sao ngủ được. Ban ngày, nhìn bóng hoè hết dời bên này tại chuyển bên nọ, người chinh phụ thấy thời gian chờ đợi dài vô cùng. Những từ láy đằng đẳng, dằng dặc có sức gợi tả gợi cảm rất lớn.

    – Từ câu 13 đến 16: Người chinh phụ gắng tìm cách vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn, nhưng rốt cuộc vẫn không thoát nổi. Khi đốt hương thì nàng lại chìm đắm vào sáu tủi miên man; lúc soi gương thì lại nhớ gương này mình với chổng dã soi chung, nên không cầm được nước mắt. Nàng gượng gảy đàn thì lại sợ dày uyên đứt, phím loan chủng… Nàng đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất chứa trong lòng.

    * Nỗi nhớ thương người chổng ở phương xa.

    – Người chinh phụ nghĩ đến chồng mình đang xông pha nơi chiến trận ở phương xa, chợt nảy ra ý nghĩ: nhờ gió ‘xuân gửi lòng mình tới chồng:

    Lòng này gửi gió đông có tiện ?

    Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

    Non Yên dù chẳng tới miền

    Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

    – Câu thơ thể hiện nỗi nhớ mênh mông, vô tận. Thâm thảm nỗi nhớ chổng mà cũng là thăm thẳm con đường đến chỗ chổng đang đánh giặc, thăm thẳm con đường lên trời. Đất trời thi bao la, bát ngát, liệu có thấu nỗi sinh li đau đớn hơn tủ biệt đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ hay chăng?

    – Giữa cảnh vật và con người dường như có sự tương đổng khiến cho mối sâu thương càng trở nên miên man, bất tận : Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun… Chinh phụ nhìn cảnh vật bằng đôi mắt chất chứa buồn thương nên thấy bất cứ cái gì cũng gợi dậy bao nỗi đoạn trường. Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình nhằm thể hiện rõ tinh cảnh vả tâm trạng lẻ loi cúa người chinh phụ. Dù ở đâu, lúc nào, làm gì… nàng cũng chì lầm lũi, vò võ một mình một bóng mà thôi!

     

    – Trời đất không cùng, nỗi nhớ cũng không cùng ; người chinh phụ đành trở lại 

    với thực tố xung quanh. Ý thơ chuyển từ tinh sang cảnh. Không gian âm u: Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun, như truyền, như ngấm cái lạnh lẽo đáng sợ vào tận tầm hơn người chinh phụ cô đơn:

    Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,

    Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.

    Tuy nhiên, đến câu Sâu tường kêu vầng chuông chùa nện khơi, không khí đã thấy dễ chịu hơn. Cũng bởi người chinh phụ chỉ mới thấy thất vọng mà chưa tuyệt vọng.

    • Trong lòng người chinh phụ rạo rực niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi.

    – Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tinh đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm. Chữ thốc rất mạnh trong câu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hiệu sự chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. cảnh hoa – nguyệt giao hoà khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lửa đôi:

    Lá màn lay ngọn gió xuyên,

    Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.

    Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

    Nguyệt lổng hoa, hoa thâm từng bông.

    ■ Điệp từ hoa, nguyệt, các động từ dãi, lồng ngầm diễn đạt ý lứa đỗi quấn quýt, gán gũi; âu yếm nồng nàn mà vẫn kín đáo, tế nhị.

    • Đặc điểm nghệ thuật:

    – Tác giả chọn và dùng từ rất đắt: Dạo hiên vắng thấm gieo từng bước, Sương như búa, bồ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xò hẻo cành ngô, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên,… Đặc biệt, tác giả đã khai thác và sử dụng hàng loạt từ láy: gà eo óc, hòe phất phơ, khắc giở đằng đẵng, mối sầu dằng dặc, hồn mê mải, lệ châu chan, trời thâm thẳm, nhở đau đầu,… về nhạc điệu, tác giả đã phát huy một cách tài tinh nhạc điệu trám bổng, du dương của thể song thất lục bát giống như những đợt sóng dào dại diễn tả tám trạng người chinh phụ hốt nhớ lại thương, hết thương lại nhớ trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc.

    3. Kết bài:

    – Bàng nghệ thuật tả cành tả tinh điêu luyện, tác giả dã diễn tả thành công những cung bậc cảm xúc khác nhau trong lòng người chinh phụ và thông qua đó lẽn án chiến tranh phi nghĩa, để cao hạnh phúc lứa đôi…

    – Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lẻn tư tưởng chủ đạo trong ván chương một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người. 

     

    Chinh phụ ngâm được tác giả Đặng Trẩn Côn sáng tác bằng chữ Hán vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên hết Lô – Mạc đánh nhau đến Trịnh – Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất binh nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Dân chúng sống trong cảnh loạn li nối da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chổng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chát tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đổng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Có nhiều người dịch tác phẩm nảy sang chữ Nôm, trong đó bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm được đánh giá là hoàn hảo hơn cả bở; nó thể hiện gần như trọn vẹn giá trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.

    Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là để cao quyền sống cùng khát vọng tinh yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây.

    Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng tiễn chổng ra trận với mong muốn chổng minh sẽ lập được công danh và trở vể cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, nàng phải sống trong tinh cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chổng. Thấm thìa nỗi cô đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang trôi qua vùn vụt và cảnh lứa đôi đoàn tự hạnh phúc ngày càng trỗ nên xa vời. Vì vậy mà nàng rơi vào tâm trạng cô đơn, sầu khổ triền miên. Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng ấy.

    Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (từ câu 193 đến câu 228) miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của tâm trạng cô đơn, buồn khổ ở người chinh phụ trẻ đang khao khát được sống trong tinh yêu và hạnh phúc lứa đôi.

    Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ:

    Đoạn một (từ câu 1 đến câu 16): Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi; cảm giác về thời gian chờ đợi; cố tìm cách giải khuây nhưng không được.

    Đoạn hai (từ câu 17 đến câu 28): Nỗi nhớ thương người chổng ở phương xa; cảnh ảm đạm khiến lòng chinh phụ càng thêm sầu thảm.

    Đoạn 3 (từ câu 29 đến hết): Khung cảnh thiên nhiên khiến lòng người chinh phụ rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi. 

    Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chổng. Một lẩn nữa, nàng ti/ hỏi vỉ sao đôi lúa uyên ương lại phải chia lia ? Vì sao mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy nhiêu câu hỏi đều không có lời đáp. Tâm trạng bân khoăn, day dứt của người chinh phụ được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật’miêu tả tấm lí tinh tế. Có thể nói, sáu và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.

     

    Trong phẩn đẩu, hành động và tâm trạng của người chinh phụ dã được ngòi bút sắc sảo của tác giả khắc hoạ rõ nét:

    Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

    Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

    Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?

    Đèn có biết dường bằng chẳng biết ?

    Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

    Buồn rầu nói chẳng nên lời,

    Hoa đèn kia với bóng người khả thương!

    Nàng lăng lẽ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước trong nỗi cô đơn dang tràn ngập tâm hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như troi gian ngưng đọng. Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieó vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. Nàng bổn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong một tiếng chim thước báo tin vui mà chẳng thấy.

    Nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Không gian im ẳng, chỉ có ngọn đèn đổi diện với năng. Lúc đầu, nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của mình, nhưng rồi lại nghĩ: Đèn có biết dường bằng chẳng biết, bởi nó là vật vô tri vô giác. Nhìn ngọn đèn chong suốt năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, náng chợt liên tưởng đến (ình cảnh của minh và trong lỏng rưng rưng nỗi thường thân tủi phận: Hoa đèn kia với bóng người khá thương.

    Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và suốt năm canh ngồi một mình bên ngọn đèn chong, không biết san sẻ nỗi niềm tâm sự cùng ai đã miêu tả được tâm trạng cô đơn tột độ của người chinh phụ. 

    Tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám cảu thơ. Đó là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài hiên vắng, trong phòng lạnh… Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng.

    Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:

    Gà eo óc gáy sương năm trống,

    Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

    Khấc giờ đàng đảng như niên,

    Mối sầu dàng dặc tựa miền biển xa.

    Tiếng gà gáy báo sáng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Những cây hoè phất phơ rủ bóng gợi cảm giác buồn bà, u sầu. Giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào!

    ở các khổ thơ tiếp theo, nổi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng cảu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:

    Hương gượng đốt hồn đà mê mải,

    Gương gượng soi lệ lại châu chan.

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

    Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khoả nhưng càng lún sâu bơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tinh cành lẻ loi đơn chiếc. Khi Hương gượng đốt thi hổn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc Gương gượng so/ thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chổng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chổng đang chia Ra đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành : Dây uyên kinh đứt, phim loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng minh vậy.

    Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tinh nghĩa vợ chổng. Nay vợ chổng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia lìa đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi, khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ chồng trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chỉ còn biết gửi nhớ thương theo ngọn gió:

    Lòng này gửi gió đông có tiện ? 

    Nghìn vàng xin gũi đốn non Yên.

    Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt nảy ra một ý nghĩ rất chần thành mà cũng rất nên thơ: nhờ ngọn gió xuân gửi lòng minh tới người chồng ở chiến trường xa, dang đối đẩu từng ngày từng giờ với cái chết để mong kiếm chút tước hẩu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đinh cùng với bóng dáng thân yêu của người vợ trẻ:

    Non Yên dù chẳng tới miền,

    Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

    Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vò biên: Nhớ chàng thảm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhổ người yêu, thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con dường lên tròi. Câu thơ hàm súc vể mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong văn chương nước ta thời trung đại:

    Trời thăm thẳm xa vài khôn thấu,

    Nỗi nhở chàng đau đáu nào xong.

    Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu nỗi sinh //đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ hay chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đau đớn khôn nguôi:

    Cảnh buồn người thiết tha lòng,

    Cành cày sương đượm tiếng trùng mưa phun.

    Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đổng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương. Sự giá lạnh của tâm hổn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt 

    sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tinh này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn trưởng trong lòng người chinh phụ. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nói lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rổi lại từ cảnh trở về tinh, cứ lặp đi lặp lại như vậy nhằm thể hiện rõ tinh cảnh lẻ loi và tâm trạng cô đơn của người chinh phụ. Dù ở đâu, lúc nào, làm gì… nàng cũng chỉ lầm lũi, vò võ một minh một bóng mà thôi!

     

    Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trở về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tinh sang cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh lẽo đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cô đơn: Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,

    Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.

    Hình như người chinh phụ đã thấm thìa sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên đến câu: Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi thi không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh phụ chỉ mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng.

    Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tính đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:

    Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,

    Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.

    Lá’ màn lay ngọn gió xuyên,

    Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.

    Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

    Nguyệt lồng hoa, hoa thám từng bông.

    Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

    Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!

    Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tinh, cử dội qua dội lại như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng ở đâu, lúc nào, làm gì… người chinh phụ cũng chỉ vò võ một mình một bóng mà thôi!

    Từ thốc rất mạnh trong càu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hể- chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa – nguyệt giao hoà khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đối. Những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lửa đôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo.

    Tác giả lựa chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt, đặc biệt là các tính từ là từ láy làm nổi bật tinh chất của sự vật : eo óc, phất phơ, đàng đàng, dàng dặc, mê mải, châu chan, thăm thẳm, đau đáu… về nhạc điệu, tác giả đã khai thác và phát huy một cách tài tình âm hưởng trầm bổng, du dương của thể thơ song thất lục bát để diễn tả cảm xúc giống như những đợt sóng dạt dào trong tâm trạng người chinh phụ, hết nhớ lại thương, hết lo lắng lại trông mong, hết hi vọng lại tuyệt vọng… trong tinh cảnh lẻ loi đơn chiếc.

    Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tinh được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật. Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình, cảnh lẻ loi vì chổng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyển lực của vua chúa, tác giả có chủ ý để cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện thái độ bất binh, phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngẫm đã toát lên tư tưởng chủ dạo trong văn chương một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống, quyến dược hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.

    Thu gọn (-)

    Điểm từ người đăng bài:

    0123451417 Tặng xu Tặng quà Báo cáo

     Bình luận

    Trần Thị Huyền Trang Trần Thị Huyền Trang

    Thứ 4, ngày 26/04/2017 09:18:52

     Chat Online

    Trong văn học trung đại, để lên án sự suy tàn của xã hội phong kiến, đồng thời ngợi ca khát khao hạnh phúc của con người, nhiều thi nhân gửi tâm sự, nỗi bất bình của mình vào các bài thơ, khúc ngâm. Thời Đường ở Trung Quốc, Vương Xương Linh oán ghét chiến tranh phi nghĩa, mà viết “Khuê oán”. Thời Lê ở nước ta, Đặng Trần Côn cảm thông sâu sắc trước số phận những người phụ nữ có chồng đi lính mà làm nên tuyệt tác “Chinh phụ ngâm”. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ“ thuộc tác phẩm trên đã chạm đến trái tim người đọc khi tái hiện hoàn cảnh cô độc, nỗi nhớ thương da diết của người phụ nữ ước mơ hạnh phúc đoàn tụ.

    “Chinh phụ ngâm” ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII, đầu đời Lê Hiển Tông, phong trào khởi nghĩa nông dân diễn ra liên miên, triều đình điều binh lính đi dẹp loạn. Từ đấy nhiều gia đình chịu cảnh chia lìa, kẻ ở người đi, không hẹn ngày gặp lại. Số phận và bi kịch của những con người nhỏ bé trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ vực thẳm ấy đã lay động trái tim của Đặng Trần Côn. Trong khúc ngâm viết bằng chữ Hán của ông có 476 câu thơ, làm theo thể trường đoản cú. Khi Đoàn Thị Điểm dịch sang chữ Nôm đã chuyển tác phẩm về thể thơ song thất lục bát, dùng âm điệu réo rắt, thiết tha của thể thơ dân tộc góp phần thể hiện tình cảnh và tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi lính. Sở dĩ Hồng Hà nữ sĩ trung thành với nguyên tác và có nhiều sáng tạo trong quá trình dịch bởi dịch giả đã ở cùng một hoàn cảnh với nhân vật trữ tình: sau khi cưới chưa lâu, chồng bà là Nguyễn Kiều phải đi sứ Trung Quốc, chính vì thế, bà thấu hiểu cảnh sống cô đơn, tẻ nhạt với những buồn lo, nhung nhớ của người chinh phụ.

    Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ bơ vơ chốn khuê phòng vắng lặng, lạnh lẽo, nỗi khổ tâm của nàng được bộc lộ qua hành động và ngoại cảnh.

    “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

    Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

    Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

    Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?”

    Người chinh phụ dạo bước trong hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước chân mình, như đếm từng ngày chồng đi. Những bước chân lặng lẽ của nàng nặng trĩu u sầu, đong đầy thương nhớ, như bước chân người cung nữ trong “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều: “Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ“. Trong những buổi đi dạo của nàng không còn vẻ ung dung, an nhàn mà thay vào đó là sự ngán ngẩm, buồn chán – tâm trạng khác hẳn với Thúy Kiều khi bước đi tìm người yêu: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.” Nàng Kiều đi tìm tình quân trong niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn, còn người chinh phụ vừa đi vừa gặm nhấm nỗi cô đơn, lo lắng cho sự an nguy của người thân chốn biên ải xa xôi. Nàng hết dạo hiên, lại ngồi buồn, cuốn rèm, buông rèm. Những hành động vô nghĩa ấy được lặp đi lặp lại trong vô thức, nàng chẳng còn bận tâm mình đang làm gì bởi tâm trí nàng giờ dồn hết vào người chồng đang tòng quân. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ “vắng”, “thưa” vẽ ra không gian trống trải, thưa thớt tình thương yêu, càng tô đậm sự lẻ loi, buồn bã, bồn chồn của nhân vật trữ tình. Người chinh phụ không chỉ buồn nhớ, lo lắng cho chồng mà còn trông ngóng tin chàng. Nàng đợi tin lành của chim thước sẽ xoa dịu nỗi bất an, nhưng chim thước không tới. Nàng lại trỏ bóng đèn, hỏi đèn mà hỏi lòng. Nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mòn mỏi trông chờ nàng càng hụt hẫng, tuyệt vọng. Khát khao sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình của nàng càng khiến nàng đau đớn, thất vọng. Câu hỏi tu từ và điệp từ “rèm” lặp lại ba càng đẩy nàng vào bế tắc, cái bế tắc của xã hội phong kiến suy tàn, của triều đình loạn lạc khiến niềm tin của con người về tình yêu, hạnh phúc không còn giá trị. Chao ôi, người chinh phụ mới đáng thương làm sao!

    Người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi bóng tối cô đơn tịch mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm bạn với bóng đèn.

    “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?

    Đèn có biết dường bằng chẳng biết, 

    Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

    Buồn rầu nói chẳng nên lời,

    Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

    Điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng”, “đèn có biết” khiến nỗi buồn đau, thương nhớ của người chinh phụ thêm da diết, day dứt. Trong tâm trạng đó, nàng đối diện với ngọn đèn dầu, mong muốn được thấu hiểu, được chia sẻ tâm tư. Hình ảnh cây đèn dầu cũng xuất hiện trong những tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại khác. Ca dao có câu “đèn thương nhớ ai/ mà đèn không tắt”, thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của người con gái với người mình yêu. Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Vũ Nương cũng lấy ngọn đèn dầu để xóa giải nỗi cô đơn khi Trương Sinh đi lính. Nhưng đến “Chinh phụ ngâm”, ý nghĩa biểu tượng của ánh đèn dầu không chỉ dừng lại ở đó. Đặng Trần Côn mượn cây đèn đang tàn mà ẩn dụ sự trôi đi nhanh chóng của thời gian, sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. Nhà thơ muốn nói: cuộc đời chỉ là kiếp hoa đèn mong manh dang dở. Chính vì vậy, vật vô tri vô giác là cây đèn cháy đỏ khắc khoải, cháy đến tàn bấc dầu kia không những không thể đồng cảm với nỗi đau buồn, tình cảnh cô đơn, lẻ loi người chinh phụ mà càng khiến nàng vô vọng khôn cùng. Tâm trạng của nhân vật trữ tình được khắc họa bằng những tính từ chỉ cảm xúc: “bi thiết”, “buồn rầu”, “thương”. “Bi thiết” được hiểu là bi thương, thảm thiết, từ “thiết” theo nghĩa Hán Việt còn có nghĩa là cắt, mài. Những suy tư muộn phiền của người chinh phụ khao khát được bộc lộ, được thấu hiểu, nhưng trong tình cảnh cô độc vắng tẻ của nàng biết lấy ai để trút bầu tâm sự, nàng chỉ biết dồn nén những cảm xúc ấy, cảm nhận nỗi đau như thể trái tim bị cứa, mài. Qua việc cảm nhận tâm sự của người chinh phụ khi đối diện với ngọn đèn, người đọc trầm trồ ngợi ca tài năng nghệ thuật trong miêu tả tâm trạng của tác giả!

    Ngọn đèn tắt, bỏ lại người chinh phụ cô quạnh trong đêm dài tịch mịch u sầu.

    “Gà eo óc gáy sương năm trống,

    Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.”

    Một đêm dài năm canh, người chinh phụ vì trông ngóng người chinh phu, thức trọn năm canh, nghe tiếng gà gáy mà sợ hãi, buồn rầu. Cái âm thanh “eo óc” ấy thưa thớt, ghê rợn, tang tóc, khó chịu, từng tiếng từng tiếng vang lên rõ mồn một, đối lập với sự tĩnh lặng, trầm lắng trong tâm nàng. Tiếng gà gáy trong đêm gợi ra khoảng không mênh mông, hiu quạnh, khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên một nấc thang mới, khiến nó đau đớn hơn, cô độc hơn, dày vò nàng hơn. Không chỉ có tiếng gà gáy khiến nàng trằn trọc, bóng “hòe phất phơ“ cũng khiến người chinh phụ suy tư, lo nghĩ. Vây quanh người chinh phụ là những bóng dáng mập mờ lay động trong đêm, như ẩn như hiện, như có như không. Từ láy gợi hình “phất phơ“ càng tăng thêm tính mơ hồ, hư ảo của cảnh vật, của tin tức về người chồng ngoài biên ải, của những buổi đoàn tụ, sum họp gia đình trong mơ ước ấy, nàng càng mong chờ, càng cảm thấy xa xôi. Hình ảnh cây hòe trong câu thơ trên gợi nhắc ta về bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi: “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”. Cây hòe của Nguyễn Trãi đẹp, căng tràn nhựa sống, gợi nên sự vui tươi của buổi chiều mùa hạ, khác hẳn với vẻ buồn bã, u sầu của cây hòe đặt trong đêm khuya thanh vắng trong khúc ngâm của Đặng Trần Côn. Từ đó ta thấy nghệ thuật dùng từ của tác giả, từ tính từ “phất phơ“ đến động từ “rủ“, tất cả mang sắc thái chán chường, ủ rũ.

    Trong không gian vắng lặng, thời gian đã đi qua màn đêm, người chinh phụ ôm nỗi nhung nhớ, thấm thía về bi kịch đời mình.

    “Khắc giờ đằng đẵng như niên,

    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

    Vắng chồng, cuộc sống của người chinh phụ thật tẻ nhạt, buồn chán và nặng nề với những thương nhớ đong đầy từng khắc, cô đơn bủa vây từng giờ. Những ngày tháng này, thời gian trôi đi thật chậm chạp, như muốn gặm nhấm chuỗi ngày sầu bi của nàng. Một ngày không còn được đo bằng vài canh, mấy khắc, mà được tính đếm bằng cả năm dài “đằng đẵng”. Từ láy “đằng đẵng” kéo dài thời gian, kéo dài nỗi buồn và tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ có chồng ra trận. Nàng giờ ở vào hoàn cảnh của Kim Trọng khi thương nhớ Thúy Kiều: “Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!” Trong những ngày tháng khó khăn này, người chinh phụ ngẫm về cuộc hôn nhân dang dở, về cuộc đời không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, khiến nàng đã sầu lại càng sầu thêm. Quả đúng là “sầu đong càng lắc càng đầy”, nỗi buồn của người chinh phụ càng triền miên, không có hồi kết. Tác giả đã so sánh tâm tư của nàng với hình ảnh ước lệ “miền biển xa”, những lo lắng, buồn thương, đau xót của người chinh phụ vượt ra ngoài giới hạn về không gian và thời gian. So sánh với bản chữ hán của Đặng Trần Côn “Sầu tự hải/ Khắc như niên”, ta thấy Đoàn Thị Điểm không chỉ trung thành với nguyên tác mà còn có những sáng tạo riêng trong quá trình dịch, giúp người đọc dễ hiểu, dễ đồng cảm hơn với nhân vật trữ tình.

    Người chinh phụ chán ghét thời gian trôi chậm chạp, cố vùng thoát khỏi chuỗi ngày cô đơn, lẻ loi dai dẳng.

    “Hương gượng đốt hồn đà mê mải

    Gương gượng soi lệ lại châu chan.

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”

    Mong muốn xóa tan ưu phiền, người chinh phụ đốt hương nhưng lại không kìm được lòng mà mê man trong quá khứ. Trong đoạn trích “Thề nguyền” trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, Kim Trọng cũng đốt hương “Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương” để mùi hương trầm ấm áp làm chứng cho thời khắc quan trọng – hai người cất hẹn ước trăm năm. Người chinh phụ cũng bồi hồi nhớ lại lời hẹn thề năm nào. Mùi hương trầm đã vô tình đưa nàng trở về những tháng ngày hạnh phúc trước kia, để tâm hồn nàng lạc đi tìm những kí ức đẹp quá xa vời. Nhưng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp, nhân vật trữ tình càng thấm thía bi kịch hiện tại. Nàng trơ trọi, bơ vơ trong sự thật hiển nhiên: những mặn nồng xưa kia không thể lấy lại được. Vậy, việc đốt hương vốn để tìm lại niềm thanh thản trong tâm hồn lại khiến người phụ nữ bé nhỏ, đáng thương và bơ vơ thêm thống khổ. Người chinh phụ đành tìm cách khác để giải tỏa tâm sự: nàng soi gương. Trong chuỗi ngày đợi chờ người chinh phu, người chinh phụ chẳng buồn đoái hoài đến phấn son hoa lệ: “Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?” Nhưng đêm nay, mong muốn thoát khỏi nỗi cô đơn bủa vây, nàng gượng gạo cầm gương soi. Nàng giật mình xót xa cho dung nhan võ vàng của người phụ nữ trong gương kia. Nàng thương đôi mắt buồn chứa chan u sầu, nàng thương đôi môi chẳng thể nở một nụ cười nhạt, nàng khóc cho tuổi xuân héo tàn, cho dung mạo đang độ tươi thắm bị nỗi đau âm ỉ tàn phá. Nhưng những giọt lệ nào có thể giúp nàng cứu vãn được tình cảnh bi đát này. Cảm thấy việc đốt hương, soi gương không thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm đến tiếng đàn. Tác giả sử dụng một loạt hình ảnh ước lệ như “sắt cầm”, “dây uyên”, “phím loan” tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, cho vợ chồng hòa hợp. Người chinh phụ lo sợ dây đàn đứt, báo điều chẳng lành về cuộc hôn nhân đang bị chia cắt, về người chồng ngoài chiến trường bặt vô âm tín. Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng gượng gạo, chán nản ở người chinh phụ, nàng vùng vẫy trong nỗi cô đơn nhưng lại bị chính nỗi cô đơn bóp chặt. Những thú vui của tầng lớp quý tộc giờ đây lại không thể đem lại cho nàng niềm vui, hơn thế nữa chúng lại như liều thuốc kích thích khối u sầu khổ trong lòng nàng. Nàng chỉ mong được sum vầy, nhưng buổi đoàn tụ trong tưởng tượng của nàng lại quá đỗi xa xỉ trong hoàn cảnh này.

    Giúp việc truyền tải nội dung và giá trị nhân đạo của “Chinh phụ ngâm” là tài năng nghệ thuật và sáng tạo tài tình của tác giả và dịch giả. Xuyên suốt mười tám câu thơ trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ“ là các biện pháp nghệ thuật như điệp ngữ, câu hỏi tu từ, ẩn dụ,… và các bút pháp ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình. Tác giả cũng có sự chọn lọc tinh tế các từ ngữ gợi hình, gợi cảm để miêu tả chi tiết và chân thực, cảm động từng cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Thêm vào đó, thể thơ song thất lục bát với âm điệu réo rắt, thiết tha, giàu tính nhạc cũng góp phần quan trọng thể hiện nội tâm người chinh phụ. Bên cạnh đó, Đoàn Thị Điểm rất trung thành với nguyên tác khi dịch nên nhiều ý thơ giàu cảm xúc được truyền tải đến người đọc một cách trọn vẹn.

    Kết lại, “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ“ trích “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn đã để lại trong lòng người đọc nhiều dư âm sâu sắc về nỗi buồn đau, thương nhớ da diết, tình cảnh cô độc, lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi lính. Qua đó, người đọc hiểu những tâm tư tình cảm và suy nghĩ của tác giả về con người, xã hội đương thời. Ông lên án chế độ phong kiến mục nát với những cuộc chiến tranh phi nghĩa kéo dài và ngợi ca tình yêu cao đẹp, khát khao yêu thương đôi lứa.

     

     

     

    Bình luận
  2. Trong cuộc đời chúng ta sẽ có ít nhất một lần chịu tình cảnh lẻ loi. Không biết lẻ loi vì thiếu bạn, lẻ loi vì chồng hay vì những vấn đề nào đó. Nói chung tình cảnh ấy rất dễ có ở trong con người chúng ta. Cuộc sống không bằng phẳng vì thế cho nên những vấn đề khiến ta lẻ loi sẽ rất dễ xảy ra. Tuy nhiên nổi bật nhất là lẻ loi vì chồng. Trong thơ xưa Đoàn Thị Điểm đã đem đến cho chúng ta một đoạn thơ hay về tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi đánh trận nơi xa. Bài thơ đã bật lên những nỗi nhớ nhung sầu muộn của người phụ nữ thiếu vắng bóng chồng.

    Trước hết là bốn câu thơ đầu với những tâm trạng cảm xúc của người lẻ loi ấy:

    “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
    Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
    Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
    Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”

    Dõi theo từng bước chân của người thiếu phụ ấy ta thấy một tâm trạng thẫn thờ của cô. Dường như bàn chân kia không muốn bước nữa chỉ như cố bước đi mà thôi. Có lẽ bàn chân ấy chỉ muốn chôn tại một chỗ để làm cho những cảm xúc kia chìm đắm trong con người ấy. Nói đúng hơn thì cảm xúc kia như níu bước chân lại không muốn cho đi. Ngồi trong rèm thưa mà nàng thấy lòng mình buồn vô tận. Đó là một nỗi buồn thương không thể có ai hiểu được cho nàng. Người nàng thương nhớ cũng không có ở đấy khiến cho một mình nàng như bị cảm xúc kia dìm xuống. Nàng còn buồn rằng con chim thước ngày nào cũng không có để nàng hỏi tin về chàng. Trong rèm kia ngọn đèn dường như chứng kiến mọi hoạt động tâm trạng của nàng nhưng liệu đèn có biết không. Câu hỏi vang lên nghe sao thật chua chát. Đúng là đèn thức cùng nàng thật đấy nhưng đèn cũng chỉ là một vật vô tri vô giác dẫu có biết thì cũng không nói lên được. Cả trong rèm cả ngoài rèm đều không thể cho nàng một chút an ủi nào. Nàng càng buồn lại càng buồn hơn.

    Và nàng cũng như biết được sự vô tri của đèn, nàng hỏi như thế rồi nàng lại tự trả lời câu hỏi của mình:

    “Đèn có biết dường bằng chẳng biết
    Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
    Buồn rầu nói chẳng lên lời
    Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

    Đúng là có biết cũng không thể nói lên, kể cả cho đèn kia giống như một con người để từ đó cảm nhận được nỗi đau của người thiếu phụ thì cũng không thể nói được hết cái tâm trạng của nàng. Chỉ có mình nàng mới hiểu được cảm xúc ngập tràn trong nàng bây giờ thôi. Nàng buồn không thiết nói lời nào, và hình ảnh hoa đèn lại như an ủi nàng nó trở thành người bạn để cho thức cũng như tương tư của nàng. Phải chăng nàng đang cố tìm đến sự đồng cảm, không có người đồng cảm nàng tìm đến hoa đèn kia. Chứ thực chất thì hoa đèn cũng có biết chi đâu mà thương cho nàng.

    Chính cái tâm trạng ấy đã tác động đến cảnh vật. Đôi mắt nhớ thương chồng của nàng nhìn đâu cũng thấy tàn phai, buồn bã:

    “Gà eo óc gáy sương năm trống
    Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
    Khắc giờ đằng đẵng như niên
    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
    Hương gượng soi lệ lại châu chan
    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
    Dây uyên kinh đứt phím loan ngại ngùng”

    Tiếng gà báo canh nghe ấm áp như thế mà qua sự cảm nhận của người thiếu phụ lại trở thành sự eo óc buồn lạ thường. Thấy rõ được những tiếng gà gáy như thế chắc hẳn nàng không ngủ được nên mới nghe được những tiếng gà gáy năm canh đó. Cây hòa ngoài kia cũng rủ bóng bốn bên. Nó giống như hàng tóc của người con gái vì nhớ thương lẻ loi không thiết tha gì cúi đầu mặc cho mái tóc rũ xuống. Mỗi giờ trôi qua đối với nàng dài tựa một năm vậy. Người ta thường ví khoảng thời gian mong chờ bao giờ cũng dài như hàng thế kỷ trôi qua vậy nhất là đợi chờ người mình yêu thương. Và ở đây người chinh phụ cũng lẻ loi chờ đợi vì thế cho nên mới thấy một khắc dài tựa một năm. Mối sầu thì dằng dặc như miền biển xa. Có thể nói nỗi buồn sầu kia mang tầm vóc không gian rộng lớn và thời gian dài đằng đẵng. Và chính vì thế mà nàng không thiết tha gì đến bản thân mình nữa. Nếu có soi gương thì cũng chỉ là gượng soi mà thôi. Nếu có đánh đàn thì cũng ngượng ngạo mà sợ dây loan kia đứt. Đàn đứt thì không may mà chồng nàng ở biên cương đối đầu với cái chết. Nàng không muốn thấy một điềm gở nào và hình ảnh dây loan kia chính là dây hồng tình nghĩa của vợ chồng.

    Thế rồi nỗi sầu muộn lại được bao trùm trong những câu thơ cuối đoạn trích:

    “Lòng này gửi gió đông có tiện
    Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
    Non Yên dù chẳng tới miền
    Nhớ chàng thăm thẳm xa vời khôn thấu
    Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
    Cảnh buồn người thiết tha lòng
    Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

    Nàng mượn gió đông để gửi những tâm tư tình cảm và tấm lòng của mình đến người chồng nơi biên cương của ai. Chốn non yên kia không biết chàng có nhận được những tâm sự của nàng không nhưng nàng vẫn mong gửi đi. Có tiện thì mong chàng hãy biết đến tấm lòng của thiếp. Đường đi của những tâm sự ấy phải trải qua biết bao nhiêu núi non hiểm trở và bản thân nàng thì biết rõ điều đó. Nàng bỗng thấy thương nhớ thăm thẳm, dường như nỗi nhớ ngày một xoáy sâu vào trong lòng nàng. Và như không thể kìm được cảm xúc nàng đau lòng bật lên những tiếng khóc hòa vào những hạt mưa ngoài kia.

    Như vậy qua đoạn trích này ta thấy Đoàn Thị Điểm đã mang lại cho chúng ta những cung bậc cảm xúc của người chinh phụ mà cảm xúc bao trùm chính là sự lẻ loi đơn chiếc. Người con gái ấy phải sống xa chồng, thân con gái chỉ có một mình vò võ thử hỏi rằng làm sao không nhớ không thương không sầu muộn. Qua đây ta thấy nhà thơ như đồng cảm với số phận của người phụ nữ ấy.

    Bình luận

Viết một bình luận