Qua bài tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất, tục ngữ về con người và xã hội, chứng minh tục ngữ là “túi khôn” của nhân dân ta. Mọi người giúp mình với…
Qua bài tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất, tục ngữ về con người và xã hội, chứng minh tục ngữ là “túi khôn” của nhân dân ta. Mọi người giúp mình với…
MB:
Tục ngữ là kho tàng quý trong văn học dân gian Việt Nam. Tục ngữ luôn triết lí, thể hiện trí tuệ của nhân dân. Trong đó, những câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất đã phản ánh, truyền đạt những kinh nghiệm quý báu từ những quan sát thực tế. Qua đó đã đúc kết ra được tục ngữ là “túi khôn” của nhân dân ta.
TB:
Tục ngữ là những câu có kí tự ngắn gọn, có khi mỗi câu chỉ vỏn vẹn có bốn chữ. Nhưng trong đó bao gồm cả một ý nghĩa cao cả, hàm súc; những kinh nghiệm đáng giá trong lao động sản xuất và đời sống nhân dân.
Những câu tục ngữ mang tính chất kinh nghiệm dân gian, nhưng có một cơ sở căn cứ vững chắc luôn không thay đổi là luật chuyển động của cũ trụ, các hiện tượng thiên nhiên mưa gió, sấm chớp,… Có một điều, trước đây con người đã sống giữa thiên nhiên, nhiều lúc còn chiến tranh với nó. Vì thế con người nó càng gần gũi với nhau hơn. Những kinh nghiệm quý báu được cha ông ta truyền từ đời này sang đời khác, nối tiếp với nhau theo từng thế hệ. Dựa trên cơ sở của nó thì độ chính xác của câu tục ngữ khá cao.
Từ thực tế quan sát, cứ hễ vào tháng bảy âm lịch, từng đàn kiến từ các nơi hốc cây bò ra di chuyển đến vùng đất cao khô ráo, có một số đàn bò vào nhà, leo lên các bức tường,… Và qua ngày sau sẽ có mưa to gió lớn, nghiêm trọng hơn sẽ gây ra bão, lũ lụt. Bởi kiến là loài động vật nhạy cảm với thời tiết. Từ điều đó nhân dân ta đã rút ra được “Tháng bảy kiến bò chỉ lo lại lụt”.
Những kinh nghiệm trong nông nghiệp cũng không kém phần quan trọng. Trong đó câu “tấc đất tấc vàng” được sử dụng nhiều nhất trong trồng trọt, tuy ngắn gọn nhưng cũng đã nêu lên được tầm quan trọng của đất. Một tấc đất chỉ bằng 10cm, trong khi đó vàng lại là một kim loại quý hiếm, chỉ lo bằng cân tiểu li không thể đo bằng tấc được. Ấy thế mà con người đã lây một các tầm thường như đất đem so sánh với một cái to lớn là vàng, tưởng chừng hai thứ đó có giá trị bằng nhau nhưng không phải, chỉ có những người làm nghề lâu năm mới nhận ra được giá trị to lớn của đất. Vì sao phải so sánh đất như vàng? Bởi đất là nơi bắt đầu mọi nguồn nguyên liệu cho con người. Trên mảnh đất nhỏ bé này ta có thể ra sức khai hoang, trồng trọt, chăm sóc thật tốt thì ta có thể thu về được rất nhiều sản phẩm. Khi hết rồi ta có thể khai thác tiếp tục và “nuôi lớn” mãi mãi. Nhưng vàng thì không như vậy, tài nguyên thiên nhiên thì rất quý hiếm và yêu cầu con người phải biết khai thác hợp lí và không nên lãng phí vàng bạc hay đất đai. Dựa trên cơ sở thực tế câu tục ngữ “tấc đất tấc vàng” rất đúng đắn.
Lời ăn tiếng nói giao tiếp trong xã hội cũng rất quan trọng trong đời sống của mỗi con người. Tại sao lại như vậy? Bởi lời chào thể hiện sự tôn kính, tôn trọng của người chào với đối phương để tạo ra sự gần gũi giữa người và người. Nhận được lời chào trân trọng không ai là không vui mừng cả. Khi giao tiếp, lời nói càng quan trọng hơn. Từng câu từng chữ do chính miệng ta phát ra đối phương có thể hiểu được ta là người như thế nào, nhân cách của ta ra sao,… Tóm lại, lời chào và lời nói là vô cùng quan trọng và vì thế đã đúc kết được các câu “lời chào cao hơn mâm cỗ”, “lời nói gói vàng”,…
KB:
Qua những câu tục ngữ trên chúng ta khẳng định lại rằng những câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất đã phản ánh, truyền đạt những kinh nghiệm quý báu của nhân dân trong việc quan sát các hiện tượng tự nhiên và lao động sản xuất. Tục ngữ là tri thức của nhân dân, là hành trang của sự tồn tại và phát triển. Dù ngày nay công nghệ khoa học phát triển nhưng người dân vẫn sử dụng những câu tục ngữ ấy nhằm nêu lên vai trò và ý nghĩa của chúng.
Qua bao thăng trầm lịch sử, ông cha ta đã để lại cho nhân dân Việt Nam nhiều tài sản quý giá, trong đó ca dao tục ngữ là những tài sản quan trọng và vô giá. Ca dao là lời bài hát từ trái tim người Việt, là lời tâm sự, là tiếng than thở, là nỗi niềm thầm kín của những con người Việt Nam. Ngược lại, tục ngữ được đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn của cha ông ta để lại cho con cháu. Vì vậy, tục ngữ chính là “túi khôn” của nhân dân.
Trong đời sống lao động hàng ngày, ông cha ta đã đúc kết ra rất nhiều kinh nghiệm, những kinh nghiệm lâu đời đó đã được khẳng định, chứng minh qua thực tiễn hàng ngày và đã được thể hiện dưới những câu nói, những câu hát, những câu thơ mang tính chất đơn giản. Qua thời gian, nhờ sự sáng tạo của nhân dân, những câu nói thường ngày đã ngàng càng phát triển có vần điệu, giàu hình ảnh. Từ đó, trở thành tục ngữ, thành những “túi khôn” của nhân dân. Những “túi khôn” giúp chúng ta vận dụng trong đời sống, thực tiễn ở mọi lúc, mọi nơi. “Túi khôn” tức là cái vật dụng trong đó chứa tất cả trí khôn, những tinh hoa được đúc kết từ thực tiễn được coi là kim chỉ nam trong cuộc sống con người. Tục ngữ dân gian Việt Nam là thành tựu của ngôn ngữ, của trí tuệ và kinh nghiệm sống, phản ánh chung về những kinh nghiệm, luân lí, công lí, phán xét của con người. Ví dụ như: “Bút sa gà chết”, “Có tật giật mình”, “Cơm treo, mèo nhịn đói”, “Việc bé, xé ra to”, “Một điều nhịn, chín điều lành”, hay như “Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con”, “Gà cựa dài thì rắn, gà cựa ngắn thì mềm”…
Trong lao động, con người dần dần được tôi luyện, con người học được cách phân biệt cái tốt, điều xấu, thiệc, ác. Những câu tục ngữ thường sâu lắng, là những tư tưởng, quan điểm mà dân gian ta gửi gắm vào đó, chúng chính là những suy nghĩ, những điều thấm thía mà ông cha ta đã tích lũy được. Giữa người với người xuất hiện những câu tục ngữ rút ra ở sinh hoạt, có tính chất nhận xét, giải thích, khuyên răn, theo một luân lí và thế giới quan cảm nhất định. Kho tục ngữ Việt Nam còn lại đến ngày nay là một bằng chứng của sự đấu tranh với thiên nhiên, những kinh nghiệm lao động sản xuất, kinh nghiệm về học tập, cách xử thế… của cha ông.Những câu tục ngữ về thiên nhiên thể hiện rất rõ đó là “túi khôn” và lời khuyên nhủ của ông cha ta muốn truyền đạt tới con cháu đời sau như : “Nước chảy đá mòn”, “Ở bầu thì tròn ở ống thì dài”, “Cầu vồng móng cụt, không lụt thì mưa”, “Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước”…. Hay những câu tục ngữ về cách tiên đoán thời tiết như: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa. Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”, “Đừng giống buồm trong giông bão”, “Kiến đen tha trứng lên cao. Thế nào cũng có mưa rào rất to”….Về học tập, cha ông ta có những kinh nghiệm quý được đúc kết qua các câu tục ngữ như : “Học một biết mười”, “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, “Học ăn, học nói, học gói, học mở”, “Học thầy không tày học bạn”, “Tiền học lễ, hậu học văn”, “Học đi đôi với hành”… Phong phú hơn cả, quý báu hơn cả là trí khôn của người xưa trong cách rèn luyện nhân cách, đạo đức làm người. Trong vấn đề này, tục ngữ còn lưu lại những bài học vô giá như: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Lá rụng về cội”… Hay những câu cổ vũ, muốn làm mọi người thêm vững niềm tin vào tương lai như: “Còn nước còn tát”, “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”…
Mọi câu tục ngữ đều đã được chứng thực vào mọi lĩnh vực trong cuộc sống thực tiền của chúng ta. Vấn đề về thiên nhiên, các câu tục ngữ đều được dựa trên những hiện tượng thường xuyên của tự nhiên của gió, của nắng mưa, bão táp, các hiện tượng của ngày, của năm, của tháng, của mùa. Chúng ta như được truyền thêm sức mạnh tri thức cho mình khi dần trưởng thành qua những câu tục ngữ, qua “túi khôn” của nhân dân. Bước ra xã hội, ông bà ta lại khuyên nhủ, dạy dỗ con cháu rất nhiều việc nhưng có những việc thì chính chúng ta khi đã trải qua thì các thấm thía các câu tực ngữ, những lời dạy đúng đắn của cha ông.
Tục ngữ Việt Nam thể hiện những vấn đề trong xã hội, như một hành trang kiến thức, một kiểu thể loại văn học dân gian, ông cha ta để lại giúp chúng ta có thể sử dụng như một công cụ hữu ích trong công việc, cuộc sống. Tục ngữ vừa mang tính chất dân gian, dễ hiểu, gần gũi với đời thường, vừa đúng đắn thiết thực với con người. Có những câu tục ngữ thông qua một số sự vật, hình ảnh, thường là những sự vật tiêu biểu, phổ biến để ẩn ý, làm người nghe phải suy nghĩ, liên tưởng đến một vấn đề nào đó có nghĩa tương tự trong cuộc sống. Tục ngữ còn được sử dụng trong những lối chơi chữ, đối nghĩa, những câu thơ mang tính đối đáp. Vì vậy, tục ngữ càng thâm sâu, đúng đắn và hữu ích hơn trong thực tiễn.
Chính vì vậy, câu “tục ngữ là túi khôn” của nhân dân quả không sai. Tục ngữ như một ngọn đèn chân lí của xã hội bất diệt, song hành cùng thời gian và trí tuệ con người Việt.