soạn bài buổi học cuối cùng ngữ văn 6 không chép mạng

By Katherine

soạn bài buổi học cuối cùng ngữ văn 6 không chép mạng

0 bình luận về “soạn bài buổi học cuối cùng ngữ văn 6 không chép mạng”

  1. Câu 1:

    Câu chuyện được kể diễn ra tại lớp học thuộc vùng An-dát ở nước Pháp,sau cuộc chiến tranh Pháp- Phổ, nước Pháp thua phải cắt vùng An-dat cho Phổ.

    – Tên tác phẩm:có nghĩa là buổi học cuối cùng học bằng tiếng Pháp.

    Câu 2:

    Truyện được kể theo lời nhân vật Phrang, ngôi thứ nhất

    – Các nhân vật khác trong truyện: bác phó rèn Oát-sto, các cậu học việc, cụ già Hô-de, bác phát thư, người dân làng, thầy giáo Ha-men, người em gái thầy giáo, học sinh

    – Nhân vật thầy giáo ấn tượng, nổi bật nhất, người đã dạy học suốt bốn mươi năm, người thể hiện tình yêu nước pháp bằng cả tấm lòng.

    Câu 3:

    Vào sáng diễn ra buổi học cuối cùng, chú bé Phrang nhìn thấy điều khác lạ:

     Có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị

     Trường học không ồn ào như thường ngày mà “bình lặng”

     Không khí trong lớp trang trọng, Ha-men mặc lễ phục, thầy dịu dàng không giận dữ

     Có thêm cụ Hô-de, bác phát thư, và người dân làng ngồi trong lớp

     Báo hiệu buổi học bằng tiếng Pháp cuối cùng, điều được niêm yết ở trụ 

    câu 4:

    Đối với việc học tiếng Pháp, Phrang rất ngại, chú bé thích rong chơi hơn là học những quy tắc phân từ

     Khi không thuộc bài, Phrang rất ân hận

     Cậu bé ước có thể đọc tiếng Pháp “thật to, dõng dạc, không vi phạm một lỗi nào”

     Cậu cảm thấy cuốn sách tiếng Pháp như “người bạn cố tri”

    Thấy bài giảng của thầy dễ hiểu, cậu yêu mến thầy nghiêm khắc Ha-men

     Buổi học cuối cùng đã khiến cho Phrang thay đổi hoàn toàn thái độ, tình cảm và suy nghĩ: ham thích học tiếng Pháp hơn.

    câu 5:

    Nhân vật thầy giáo Ha-men được miêu tả:

     Trang phục: mặc bộ lễ phục

    Thái độ với học sinh: dịu dàng, ân cần

    Những lời nói đối với việc học tiếng Pháp: ca ngợi tiếng Pháp (tiếng Pháp là vũ khí), tự phê bình mình và mọi người đã có lúc sao nhãng việc học tập và tiếng Pháp.

    Hành động, cử chỉ lúc kết thúc buổi học: thầy xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói hết được câu. Thầy viết “ Nước Pháp muôn năm”

    Thầy Ha-men là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và là người yêu nước sâu sắc.

    Câu 6:

    Một số câu văn trong truyện có sử dụng biện pháp so sánh:

    Thông thường, bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào… như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố.

     … dân làng ngồi lặng lẽ… và nhiều người khác nữa.

    …, chừng nào họ vẫn giữ tiếng nói… chìa khóa chốn lao tù.

    Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp.

    …, chúng ta đang cặm cụi vạch… đó cũng là tiếng Pháp.

    Những câu so sánh này khiến cho sự biểu đạt cụ thể, tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt tình cảm, tư tưởng sâu sắc của tác giả

    Câu 7:

    Trong truyện, thầy Ha-men có nói: “…khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ… chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù”

    – Đây là câu nói của người yêu tiếng Pháp- tiếng mẹ đẻ như chính hơi thở, nguồn sống

    – Khẳng định giá trị to lớn của tiếng nói dân tộc

    – Còn giữ vững tiếng nói là còn hy vọng đấu tranh giành lại tự do

    – Yêu quý, học tập, giữ gìn tiếng nói của dân tộc là biểu hiện rõ rệt, sâu sắc của lòng yêu nước.

    Trả lời
  2. Bố cục: 3 phần:

    – Phần 1 (Từ đầu → vắng mặt con) : Điểm khác thường trước khi Phrăng đến lớp.

    – Phần 2 (tiếp → buổi học cuối cùng này) : Buổi học cuối cùng và cảm xúc của tất cả mọi người.

    – Phần 3(còn lại) : Kết thúc buổi học với dòng chữ “Nước Pháp muôn năm”.

    Tóm tắt nội dung: 

    – Câu chuyện về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp đầy xúc động giữa thầy trò và người dân ở vùng đất bị quân Phổ chiếm đóng. Theo lời kể của cậu bé Phrăng ham chơi, không khí của buổi học hôm ấy thật khác lạ, thấm đẫm tình yêu tiếng nói dân tộc.

    Trả lời câu hỏi:

    Câu 1:

    – Câu chuyện kể về lớp học vùng An-dát của nước Pháp vì thua trận phải cắt cho quân Phổ. Từ đây, quân Phổ ra lệnh không cho phép dạy tiếng Pháp – tiếng mẹ đẻ nữa, thay vào đó là tiếng Đức. Buổi học cuối cùng ở đây có nghĩa là buổi dạy và học cuối được học tiếng mẹ đẻ của những người thầy yêu nước và những học sinh.

    Câu 2:

    – Truyện được kể theo lời nhân vật Phrăng, ngôi thứ nhất.

    – Truyện có những nhân vật: phó rèn Oát-stơ và cậu học việc, cụ già Hô-de, bác phát thư, dân làng, thầy Ha-men, các học sinh.

    – Ấn tượng nhất là thầy Ha-men: tình yêu to lớn với nghề giáo-truyền bá tiếng nói dân tộc tới các thế hệ mai sau. 

    Câu 3:

    – Sáng ngày diễn ra buổi học, trên đường đến trường : nhiều người đứng trước bảng nhãn cáo thị, lời nói kỳ lạ của bác phó rèn. Quang cảnh ở trường : bình lặng. Trong lớp : thầy mặc lễ phục trang trọng, không mắng giận ai cả, có những người dân ngồi cuối lớp.

       – Báo hiệu một điều đáng buồn sẽ đến : sẽ không còn được học tiếng Pháp nữa.

    Câu 4:

    – Trước khi biết đó là buổi học cuối : cậu bé Phrăng ham chơi, lười học.

    – Nghe thầy thông báo : thấy tiếc nuối, ân hận vì mình đã lười học.

    – Thầy gọi lên đọc : xấu hổ, ân hận, ước mình có thể đọc to rõ, không bị lỗi.

    – Kết thúc buổi học : buồn bã, xúc động trước thầy giáo. Thêm tình yêu tiếng Pháp.

    Câu 5: 

    Nhân vật thầy Ha-men :

    – Trang phục : nghiêm chỉnh, trang trọng với chiếc áo rơ-đanh–gốt xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn, mũ tròn bằng lụa đen.

    – Thái độ đối với học sinh: nhẹ nhàng, không quát mắng, kiên nhẫn.

    – Lời nói về việc học tiếng Pháp: ca ngợi, coi tiếng Pháp là chìa khóa chốn lao tù để vượt ngục nô lệ.

    – Lúc buổi học kết thúc : thầy xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, dồn hết tình yêu vào dòng chữ “Nước Pháp muôn năm”

    Câu 6: Câu văn so sánh :

    – Tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố.

    – Dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi.

    – … chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù.

    – Những tờ mẫu … như những lá cờ nhỏ …

    – … một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp.

    Tác dụng : tạo hình tượng, sự sinh động, tăng sức gợi hình gợi cảm để thể hiện tình cảm của tác giả.

    Câu 7:

    “.. khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù …”

    – Khẳng định sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc, yêu quý, học tập tiếng nói dân tộc là góp phần mở cửa tù lao thoát khỏi ách áp bức.

    #nocopy

    Xin hay nhất nha^^

    Chúc bn học tốt!!

    Trả lời

Viết một bình luận