Sự khác nhau của phong trào giải phóng của Á Phi Mĩ Latibh

By Serenity

Sự khác nhau của phong trào giải phóng của Á Phi Mĩ Latibh

0 bình luận về “Sự khác nhau của phong trào giải phóng của Á Phi Mĩ Latibh”

  1. – Châu Á, châu Phi: đấu tranh chống bọn đế quốc thực dân và tay sai để giải phóng dân tộc

    – Mĩ Latinh: đấu tranh chống các thế lực thân Mĩ, đề thành lập các chính phủ dân tộc, dân chủ, qua đó giành độc lập và chủ quyền dân tộc

    -> Hầu hết các nước châu Á và châu Phi là thuộc địa, nửa thuộc địa hoặc phụ thuộc của chủ nghĩa đế quốc và tay sai, giành độc lập và chủ quyền đã bị mất

    -> Khu vực Mĩ Latinh vốn là những nước cộng hòa độc lập, nhưng thực tế là thuộc địa kiểu mới của Mĩ, nên nhiệm vụ và mục tiêu đấu tranh là chống lại các thế lực thân Mĩ để thành lập các chính phủ dân tộc, dân chủ, qua đó giành được độc lập và chủ quyền của dân tộc

    Trả lời
  2. 2. Lào

    – Sự ra đời nước Lào độc lập: Lợi dụng thời cơ tháng 8/1945, Nhật đầu hàng Đồng minh, từ ngày 23/8/1945 nhân dân Lào nổi dậy giành chính quyền. Ngày 12/10/1945, nhân dân Thủ đô Viêng chăn khởi nghĩa thắng lợi, Chính phủ dân tộc Lào ra mắt quốc dân và tuyên bố nền độc lập của Lào.

    – Kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954):

    Tháng 3/1946, thực dân Pháp trở lại xâm lược Lào.

    Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và sự giúp đỡ của Việt Nam, cuộc kháng chiến của nhân dân Lào ngày càng phát triển. Các chiến khu được thành lập ở Tây Lào, Thượng Lào và Đông Bắc Lào. Quân giải phóng Lào và Chính phủ kháng chiến Lào được thành lập.

    Trong những năm 1953 – 1954, quân dân Lào phối hợp cùng quân tình nguyện Việt Nam mở các chiến dịch Trung Lào, Hạ Lào, Thượng Lào…, giành thắng lợi to lớn.

    Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được kí kết (7/1954), công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Lào, thừa nhận địa vị hợp pháp của lực lượng kháng chiến Lào với một vùng giải phóng ở Sầm Nưa và Phongxalì.

    – Kháng chiến chống Mĩ (1954-1975):

    Sau khi Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được kí kết, Mĩ thay chân Pháp, âm mưu biến Lào thành thuộc địa kiểu mới.

    Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào, cuộc đấu tranh chống Mĩ được triển khai trên ba mặt trận (quân sự, chính trị, ngoại giao), làm thất bại các cuộc tiến công của Mĩ và tay sai.

    Đến đầu những năm 60 (thế kỉ XX), quân dân Lào đã giải phóng 2/3 lãnh thổ, từng bước đánh bại Chiến tranh đặc biệt và Chiến tranh đặc biệt tăng cường của Mĩ.

    Tháng 2/1973, Hiệp định Viêng Chăn về lập lại hoà bình và thực hiện hoà hợp dân tộc ở Lào được kí kết. Chính phủ Liên hiệp dân tộc lâm thời và Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp được thành lập.

    Từ tháng 5 đến tháng 12/1975, nhân dân Lào nổi dậy giành chính quyền trong cả nước.

    Ngày 2/12/1975 nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào chính thức được thành lập. Từ đây, nhân dân Lào bước vào công cuộc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân và hướng tới chủ nghĩa xã hội.

    3. Campuchia

    – Chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc (1945-1954):

    Tháng 10/1945, thực dân Pháp trở lại xâm lược Campuchia, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (từ năm 1951 là Đảng nhân dân Cách mạng Campuchia), nhân dân Campuchia đứng lên kháng chiến. Lực lượng kháng chiến ngày càng trưởng thành.

    Ngày 9/11/1953, do cuộc vận động ngoại giao đòi độc lập của Xihanuc, Pháp kí hiệp ước “trao trả độc lập cho Campuchia”. Tuy vậy, quân đội Pháp vẫn chiếm đóng Campuchia.

    Sau thất bại ở Điện Biên Phủ (1954), thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, Lào và Việt Nam.

    – Giai đoạn 1954 – 1970: Chính phủ Xihanuc thực hiện chính sách hoà bình, trung lập, không tham gia bất cứ khối liên minh quân sự hoặc chính trị nào, tiếp nhận viện trợ từ mọi phía không có điều kiện ràng buộc.

    – Kháng chiến chống Mĩ (1970-1975):

    Chính phủ Xihanuc bị thế lực tay sai của Mĩ lật đổ (18/3/1970). Từ đây nhân dân Campuchia cùng nhân dân Việt Nam, Lào tiến hành kháng chiến chống Mĩ.

    Từ tháng 9/1973, lực lượng vũ trang Campuchia liên tục tiến công, bao vây thủ đô Phnôm Pênh và các thành phố lớn khác.

    Mùa xuân năm 1975, quân dân Campuchia mở cuộc tiến công vào sào huyệt cuối cùng của địch, giải phóng thủ đô Phnôm Pênh (17/4/1975), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến.

    – Cuộc đấu tranh lật đổ tập đoàn Khơme đỏ (1975-1979):

    Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cách mạng Campuchia bị phản bội. Tập đoàn Pôn-pốt thi hành chính sách diệt chủng.

    Nhân dân Campuchia lại phải tiến hành cuộc đấu tranh chống chế độ diệt chủng. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia (thành lập ngày 3 /12/1978), với sự giúp đỡ của Việt Nam, quân và dân Campuchia nổi dậy ở nhiều nơi. Ngày 7/1/1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng. Nhân dân Campuchia bước vào thời kì xây dựng lại đất nước.

    – Nội chiến và tái lập vương quốc (1979-1993):

    Từ năm 1979 cuộc nội chiến diễn ra giữa lực lượng của Đảng nhân dân với phe phái đối lập, chủ yếu với Khơme đỏ.

    Ngày 23/10/1991, Hiệp định hoà bình về Campuchia được kí kết tại Pari. Sau cuộc Tổng tuyển cử tháng 9/1993, Quốc hội Campuchia thông qua Hiến pháp, tuyên bố thành lập Vương quốc Campuchia do Xihanuc làm quốc vương. Đất nước Campuchia bước vào một thời kì mới.

    4. Quá trình xây dựng và phát triển đất nước của nhóm 5 nước sáng lập ASEAN (Singapore, Indonesia, Thái Lan, Malaisia, Philippin)

    – Sau khi giành độc lập (những năm 50 và 60 của thế kỉ XX) các nước này tiến hành công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (chiến lược kinh tế hướng nội) nhằm nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nội địa, xây dựng nền kinh tế tự chủ; đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, chiến lược này dần bộc lộ những hạn chế (thiếu nguồn vốn, nguyên liệu và công nghệ; tệ tham nhũng, quan liêu phát triển; chưa giải quyết được quan hệ giữa tăng trưởng với công bằng xã hội).

    – Từ những năm 60 – 70 trở đi, các nước này chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá lấy xuất khẩu làm chủ đạo (chiến lược kinh tế hướng ngoại), tiến hành mở cửa để thu hút vốn đầu tư và kĩ thuật của nước ngoài, tập trung sản xuất hàng hoá xuất khẩu, phát triển ngoại thương. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Tỉ trọng công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân lớn hơn nông nghiệp, mậu dịch đối ngoại tăng trưởng nhanh. Singapore trở thành “con rồng” nổi trội nhất trong bốn “con rồng” ở châu Á. Mặc dù vậy, chiến lược kinh tế hướng ngoại cũng có hạn chế (phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn và thị trường bên ngoài, đầu tư không hợp lí).

    Trả lời

Viết một bình luận