Văn sự phát triển của giáo dục việt nam qua từng thời kì 30/08/2021 By Mary sự phát triển của giáo dục việt nam qua từng thời kì
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, giáo dục đã tồn tại, phát triển cùng với sự tồn tại, phát triển của dân tộc, luôn đóng vai trò quan trọng như một trụ cột cơ bản của việc xây dựng và vun đắp cho nền văn hiến lâu đời của đất nước. Trải qua các thời kỳ: thời tiền sử, thời trước Bắc thuộc, thời Bắc thuộc, thời độc lập trung đại và cận đại, thời thuộc Pháp và thời độc lập hiện đại, nền giáo dục đã từng phải đương đầu với âm mưu xâm lược và đồng hóa của các thế lực phong kiến, thực dân, song vẫn giữ được những truyền thống dân tộc tốt đẹp, tiếp thu có chọn lọc những gì tinh túy nhất của các trào lưu văn minh nhân loại để hình thành một nền giáo dục đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ và xây dựng đất nước, vừa có khả năng hội nhập vừa bảo toàn bản sắc dân tộc của riêng mình ỄN TRÌNH GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI KỲ 1945-1954 1.1– SỰ HÌNH THÀNH NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM MỚI (1945- 1946) – Những tiền đề lịch sử Trong quá trình xâm lược và sau khi đặt được ách thống trị lên đất nước ta, thực dân Pháp đã thực hiện nhiều chính sách, thủ đoạn để khai thác thuộc địa, trong đó có chính sách về văn hóa, giáo dục. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất do Toàn quyền Bô chủ trương (1906) đã thu được một số kết quả quan trọng, song cũng bị phản ứng quyệt liệt của nền giáo dục truyền thống. Từ năm 1917, khi đến Đông Dương đảm nhiệm chức Toàn quyền, Anbe Xaro (Albert Sarraut) đã ban hành “Học chính tổng quy”, thực hiện cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (1917- 1929 nhằm xoá bỏ hoàn toàn nền giáo dục Nho học của triều Nguyễn, mở rộng hệ thống giáo dục Pháp- Việt. Nói chung, mục đích phát triển giáo dục của chính quyền thuộc địa là phục vụ sự cai trị, vì “mẫu quốc” hơn là để “khai hóa văn minh” cho Việt Nam như họ thường tuyên truyền. Bởi vì, “kinh nghiệm của các dân tộc châu á khác đã chỉ rõ rằng việc truyền bá một nền học vấn đầy đủ cho người bản xứ là hết sức dại dột”. Dù vậy, một số môn học mới được đưa vào Việt Nam, số người Tây học tăng lên, có điều kiện tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật, tư tưởng tiến bộ của Pháp và của thế giới. Nhờ đó, cuộc đấu tranh trên mặt trận giáo dục, gắn liền với cuộc đấu tranh yêu nước cách mạng vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội ở Việt Nam từng bước được phát triển. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn ái Quốc đã nhận thức được việc nâng cao dân trí cho nhân dân là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng. Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam gửi Hội nghị Vécxây (6-1919), gồm 8 điểm thì điểm thứ 6 được Nguyễn Aí Quốc ghi là “Tự do được lập trường học trong các tỉnh để dạy về kỹ thuật và nghề nghiệp cần thiết cho dân bản xứ” 1. Trong cuốn “Đường kách mệnh“, Nguyễn ái Quốc chủ trương: “Lập trường cho công nhân; Lập trường học cho con cháu nông dân; Lập nơi xem sách báo”. Chính cương vắn tắt của Đảng thông qua tại hội nghị thành lập Đảng, vấn đề “phổ thông giáo dục theo công nông hoá” được coi là một mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lầp Đảng, Nguyễn Aí Quốc đã nêu khẩu hiệu thứ 9 là “thực hành giáo dục toàn dân”. Trong Luận cương chính trị của Đảng (10- 1930), vấn đề chống nạn thất học được quan niệm là “một bộ phận quan trọng của nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng và xây dựng lực lượng cách mạng”. Trên thực tế, ở thời kỳ cao trào cách mạng 1930- 1931, nhất là trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, các uỷ ban Xô viết đã “tổ chức các lớp dạy chữ quốc ngữ và các buổi đọc sách, giảng báo” cho đồng bào. Thời kỳ vận động dân chủ (1936- 1939), nhiều phong trào giáo dục được tổ chức, nhất là phong trào “Truyền bá Quốc ngữ”. Trong cuộc vận động giải phóng dân tộc (1939- 1945), Chương trình của mặt trận Việt Minh (năm 1941) nhấn mạnh: phải huỷ bỏ giáo dục nô lệ, lập nền quốc dân giáo dục, cưỡng bức giáo dục đến bậc sơ đẳng, cho các dân tộc được quyền dùng tiếng mẹ đẻ trong việc giáo dục, lập trường chuyên môn quân sự, chính trị, kỹ thuật để đào tạo các lớp nhân tài. Hồ Chí Minh cho rằng “phong trào Việt Minh tới đâu tổ chức học văn hoá tới đó. Người biết dạy người không biết, người biết nhiều dạy người biết ít”. Năm 1943, trong Đề cương về văn hoá Việt Nam, Đảng đã nêu lên ba nguyên tắc vận động của nền văn hóa Việt Nam là: Dân tộc hóa, Đại chúng hóa, Khoa học hóa 2 Các phong trào cải cách giáo dục thời Pháp thuộc, những chủ trương giáo dục mới của Đảng trước năm 1945 đã làm cho giáo dục Việt Nam có những chuyển biến tích cực, tạo tiền đề cho sự ra đời của nền giáo dục mới sau Cách mạng Tháng Tám . – Hồ Chí Minh, người sáng lập nền giáo dục Việt Nam mới Sau Lễ tuyên bố độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (3-9-1945), Hồ Chí Minh đã nêu lên sáu nhiệm vụ cấp bách phải làm ngay, trong đó nhiệm vụ “Diệt giặc dốt” đứng hàng thứ hai. Hồ Chí Minh cho rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, sự dốt nát là một loại giặc nội xâm, là mẹ đẻ của mọi thói hư tật xấu, phản lại văn hoá”. Vì vậy, Người đề nghị mở ngay một chiến dịch diệt dốt và đích thân phát động chiến dịch “Chống nạn mù chữ”, coi đó là bước đột phá đầu tiên để nâng cao dân trí.. “Vấn đề vô cùng quan trọng ấy chúng ta chẳng chờ đến lúc sự sinh hoạt trở nên bình thường mới giải quyết. Ngay trong hoàn cảnh éo le chúng ta cũng quả quyết tiến hành”. Ngày 8-9-1945, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 17-SL, thành lập Nha bình dân học vụ, qui định nhiệm vụ của Nha là lo việc học cho nhân dân, Sắc lệnh số 19-SL, qui định hạn trong 6 tháng, làng nào, thị trấn nào cũng phải có lớp học, ít nhất là 30 người theo học; Sắc lệnh số 20/SL, ban bố việc học chữ quốc ngữ là “bắt buộc và không mất tiền” 3, hạn một năm tất cả mọi người Việt Nam từ 8 tuổi trở lên phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Trong Thư gủi học sinh, Hồ Chí Minh đã khẳng định tầm quan trọng của việc học tập, nâng cao dân trí: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Ngaỳ 4-10-1945, trong “Lời kêu gọi chống nạn thất học”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh “một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”, “Người chưa biết chữ có nghĩa vụ phải học tập, người biết chữ phải có nghĩa vụ dạy những người chưa biết chữ. Vợ chưa biết thì chồng bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, phụ nữ lại càng cần phải học”. Ngoài việc sắp xếp lại bộ máy học chính các cấp và các trường theo đúng tinh thần mới, ngày 10-10-1945, Hồ Chí Minh đã ra sắc lênh 14/SL lập một Hội đồng cố vấn học chính. Ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc“, trong đó vạch rõ nhiệm vụ của giáo dục là: “mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách học nhồi sọ”. Ngày 9-7-1946, Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 119/SL thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục. Tiếp đó ngày 10-8-1946, ra Sắc lệnh số 146/SL và Sắc lệnh số 147/SL khẳng định những nguyên tắc căn bản của nền giáo dục mới và mục đích tôn chỉ của nó. Tại Sắc lệnh 146/SL, Chủ tịch Chính phủ đã qui định ba nguyên tắc căn bản của nên giáo dục mới là: đại chúng hoá, dân tộc hoá và khoa học hoá, theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia và dân chủ 4. Nền giáo dục mới theo qui định của sắc lệnh nói trên gồm ba bậc học: Bậc học cơ bản gồm 4 năm và bắt đầu từ 1950 sẽ là bậc học cưỡng bách; Bậc học trung học và chuyên nghiệp; Bậc học đại học. Sắc lệnh 147/SL đã ấn định thêm những điều khoản pháp chế để thực hiện bậc học cơ bản, không phải trả tiền, các môn học dạy bằng tiếng Việt ở tất cả các bậc từ tiểu học đến đại học, trong tất cả các bộ môn khoa học: khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Chính phủ cũng định ra một chương trình giáo dục, tổ chức ngạch thanh tra và lập hội đồng sách giáo khoa… Đặt trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ, những chủ trương, quan điểm, phương châm, sắc lệnh và việc làm nói trên, nhất là ba nguyên tắc (ba tính chất) của nền giáo dục do Đảng và Nhà nước và Hồ Chí Minh xác định, đã trực tiếp xóa bỏ tính chất phản dân tộc, phản khoa học, phản đại chúng của chính sách giáo dục thực dân, phong kiến, đặt nền móng cho sự ra đời của nền giáo dục Việt Nam mới. Nền giáo dục mà theo Hồ Chí Minh là “một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nên giáo dục làm phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của các em”. 1.2– GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM KHÁNG CHIẾN (1946-1954) – Giáo dục trong vùng tự do Từ ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19-12-1946), hoạt động của ngành giáo dục đã có những biến động to lớn, sâu sắc để thích ứng với cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong chỉ thị Toàn dân kháng chiến, Trung ương Đảng chỉ rõ kháng chiến phải toàn diện, trong đó văn hóa, giáo dục là một lĩnh vực quan trọng. Trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, đồng chí Trường Chinh nhấn mạnh: Kháng chiến về mặt văn hoá có hai nhiệm vụ: một là đánh đổ văn hoá ngu dân, nô dịch, xâm lược của thực dân Pháp; hai là xây dựng nền văn hoá mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên ba nguyên tắc: dân tộc- khoa học- đại chúng, “văn hoá, giáo dục cũng là một mặt trận đấu tranh của nhân dân ta”. Nghị quyết của Hội nghị cán bộ Trung ương tháng 4-1947 xác định: “chú trọng mở mang giáo dục kháng chiến”. “Chương trình học phải thiết thực, nhằm mục đích đào tạo nhân tài, cần dùng cho kháng chiến trước hết, về tất cả các ngành y tế, canh nông, quân giới cũng như thương mại, ngoại giao. Học sinh phải vừa học vừa tham gia sản xuất để tự túc một phần nào. Tiếp tục phát triển bình dân học vụ. Chú ý mở trường ở các vùng quốc dân thiểu số” 5 Theo sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của Chính phủ, từ giữa năm 1947, phần lớn các trường, lớp sau khi sơ tán đến các vùng tư do, vùng căn cứ du kích, đã đi vào hoạt đông. Các trường khu vực Huế chủ yếu chuyển ra vùng Hà Tĩnh, Nghệ An, các trường ở Hà Nội, ở Liên khu III một số lên Việt Bắc, một số vào Thanh Hóa… Trả lời