Tác động của cuộc cách mạng tháng 10 nga Nguyễn Ái Quốc như thế nào
0 bình luận về “Tác động của cuộc cách mạng tháng 10 nga Nguyễn Ái Quốc như thế nào”
– Cách mạng tháng 10/1917 thành công tác động rất lớn đến tư tưởng cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
– Năm 1920, khi đọc được bản sơ thảo luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã có một sự chuyển biến căn bản trong tư tưởng – từ nhận thức của người yêu nước, chuyển sang nhận thức của người cộng sản. Người nhận thấy con đường cứu nước của cách mạng Việt Nam không có con đường nào khác ngoài con đường CM vô sản.
– Cuối năm 1920, Nguyễn Ái Quốc quyết định tham dự Đại hội Đảng xã hội Pháp ở thành phố Tua. Tại Đại hội, Người lên tiếng ủng hộ Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đồng thời cũng là một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp.
Cách mạng Tháng Mười Nga lùi về quá khứ 100 năm – một khoảng thời gian đủ dài để chúng ta có thể nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, khoa học về tầm vóc, tác động, ý nghĩa của nó, đặc biệt là sau những biến cố lịch sử diễn ra vào cuối thế kỷ XX và xu hướng vận động của thế giới đương đại.
Ngày 25/10 theo lịch Nga (tức ngày 7/11/1917), giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vic đã làm nên cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Sự vận động của các mâu thuẫn xã hội và dân tộc trong lòng xã hội Nga trong những năm đầu thế kỷ XX cùng những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã đưa nước Nga đến tình thế cách mạng trực tiếp, lật đổ ách thống trị của giai cấp địa chủ và tư bản Nga, đáp ứng khát vọng ruộng đất, khát vọng hòa bình, chấm dứt chiến tranh của nông dân, công nhân và binh lính nước Nga. Vì thế cuộc cách mạng này thành công hoàn toàn không phải là một “ngẫu nhiên của lịch sử”.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra cơ hội để hiện thực hóa lý tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, lập ra nhà nước Nga xô-viết – nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, xây dựng một chế độ xã hội mới do nhân dân lao động làm chủ. Ngay sau khi giành được chính quyền, Chính phủ công – nông – binh do V.I. Lênin đứng đầu đã ban hành “Sắc lệnh hòa bình” và “Sắc lệnh ruộng đất”, cùng các chính sách: ngày làm việc 8 giờ, giáo dục và chữa bệnh không mất tiền, nam nữ bình quyền, các dân tộc có quyền bình đẳng, tự do tín ngưỡng… Các chính sách này đã thể hiện tính triệt để của cuộc cách mạng, sự hiện thực hóa tính nhân bản, cao đẹp của lý tưởng Cách mạng Tháng Mười.
Với ý nghĩa, tầm vóc đó, Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động to lớn và sâu sắc đối với sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Thắng lợi của cuộc cách mạng này không chỉ là niềm cổ vũ, động viên, khích lệ, truyền cảm hứng và tinh thần đấu tranh cho giai cấp vô sản, cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới mà còn vạch ra cách thức để giai cấp vô sản thực hiện thành công cuộc cách mạng giành chính quyền, giành quyền làm chủ, giải phóng khỏi sự áp bức, bao gồm cả áp bức dân tộc và áp bức giai cấp. Hơn thế nữa, với sự đời của nhà nước xô-viết đầu tiên trên thế giới, Cách mạng Tháng Mười Nga đã đưa ra một mô hình nhà nước kiểu mới sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền.
Chính lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười đã khơi dậy tính năng động phi thường và sự nỗ lực đặc biệt của toàn thể nhân dân xô-viết đứng lên bảo vệ chính quyền công – nông non trẻ trước sự chống phá điên cuồng của các thế lực phản động trong nước, cùng sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc trong những năm 1917 – 1921. Chính quyền xô – viết đã vượt qua được thử thách ngặt nghèo này nhưng đồng thời đứng trước những thách thức rất lớn: nước Nga bị tàn phá và nghèo khó đến tận cùng.
Tháng 12/1922, Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô – viết (Liên Xô) ra đời; và chỉ sau hai kế hoạch 5 năm thực hiện công nghiệp hóa (1929-1939), Liên Xô đã đạt được những thành tựu vượt bậc trong phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, cũng là nước đầu tiên đưa năng lượng hạt nhân vào phục vụ đời sống hòa bình của con người. Khoa học xô-viết đã tiến tới những đỉnh cao trong tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn. Trở thành một cường quốc công nghiệp, Liên Xô cũng đi đầu trong lĩnh vực chinh phục không gian vũ trụ và nhiều lĩnh vực khác. Những công trình văn hóa, khoa học mà Liên Xô đạt được đã trở thành thành tựu chung của cả nhân loại. Tính ưu việt, nét đặc biệt thể hiện đặc trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười là nhà nước xô-viết đã thực hiện chính sách xã hội công bằng, tiến bộ, vì con người, như thực hiện giáo dục, chữa bệnh không phải trả tiền, người già cô đơn được chăm sóc, nuôi dưỡng…
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Liên Xô bị tấn công. Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, để bảo vệ thành quả mà Cách mạng Tháng Mười mang lại, người dân Liên Xô đã chịu những hy sinh mất mát vô cùng to lớn. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của mình, nhân dân Liên Xô đã góp phần rất quan trọng, trở thành lực lượng quyết định nhất cứu loài người khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít.
Sự ra đời của một loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai và những thành tựu ngoạn mục mà nhân dân Liên Xô đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thức tỉnh hàng triệu triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc, làm cho hệ thống thuộc địa rộng lớn của chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, dẫn tới thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước trên các lục địa Á, Phi và Mỹ La-tinh trong thế kỷ XX; bản đồ thế giới được vẽ lại. Đồng thời, thúc đẩy sự bùng nổ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngay trong lòng các nước tư bản phương Tây.
Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được hình thành, đi theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười đã làm thay đổi hoàn toàn cục diện thế giới, mở ra một thời kỳ đấu tranh cách mạng mới vì những mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, mở ra chân trời mới cho mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội trên thế giới. Một trật tự thế giới hai cực hình thành với một bên là các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã tạo thế cân bằng giữa các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới với các thế lực đế quốc; không cho phép các nước đế quốc tùy tiện sử dụng sức mạnh quân sự của mình để thống trị, nô dịch các dân tộc khác.
Chính sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa và những giá trị nhân văn, nhân đạo mà chế độ đó mang lại cho người dân là một nhân tố quan trọng khiến chủ nghĩa tư bản buộc phải tự điều chỉnh và thay đổi. Những quyền dân sinh, dân chủ, quyền con người… mà nhân dân lao động tại các nước tư bản đấu tranh giành được cũng có một phần nhờ ảnh hưởng to lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.
2. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga tới Việt Nam
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã có ảnh hưởng trực tiếp, nhiều mặt đến việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.
Cách mạng Tháng Mười Nga, trước tiên đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới Nguyễn Ái Quốc – người thanh niên Việt Nam yêu nước đang bôn ba ở nhiều quốc gia để tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp.
Bị thu hút bởi sự kiện lịch sử gây chấn động thế giới, Nguyễn Ái Quốc được tiếp cận với Luận cương của V.I. Lênin “Về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” khi còn ở Pháp. Chính từ trong bản luận cương này Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Điều đó được thể hiện rõ trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (năm 1927) của Người. Trong tác phẩm này, Người khẳng định: “Chỉ có đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười – con đường duy nhất đúng đắn – cách mạng Việt Nam mới giành được độc lập, tự do thực sự”. Đánh giá Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(1).
Đến với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa xã hội, những người yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX “tựa như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Từ “cảm tình” đến niềm tin khoa học, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi và chính Người đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười. Ngay từ khi Đảng còn hoạt động bí mật, mỗi dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười là một dịp sinh hoạt chính trị sâu rộng trong xã hội, là dịp mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong nhân dân thông qua công tác tuyên truyền sâu rộng, là dịp đấu tranh chính trị của các chiến sĩ trong nhà tù dưới hình thức tổ chức kỷ niệm… làm cho kẻ thù rất lo sợ, đối phó.
Lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười, chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin, những bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng vĩ đại này về nghệ thuật đấu tranh giành và giữ chính quyền,… được Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa cách mạng nước ta vượt qua nhiều khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn. Có thể khái quát ở một số nét lớn sau:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.Vai trò lãnh đạo của Đảng được V.I. Lênin vận dụng rất thành công trong Cách mạng Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành công: “cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”(2). Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ mục tiêu, vai trò và nhiệm vụ của một đảng cách mạng: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(3).
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ phong kiến và ách thống trị thực dân. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đó, sau 9 năm thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” vào năm 1954. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (năm 1975), đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Nguyễn Ái Quốc luôn khẳng định đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân đứng lên chống thực dân đế quốc, giải phóng dân tộc. Do đó, Người đã chủ trương “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, “Thành công, thành công, đại thành công”, với nhiều tầng đoàn kết: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Đảng phải chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó tập hợp rộng rãi các tầng lớp xã hội, các giới đồng bào, các dân tộc và tôn giáo,… để huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Lực lượng giai cấp, dân tộc được tập hợp và phát huy sức mạnh trong các đoàn thể cứu quốc, trong Mặt trận Việt Minh, tạo dựng an toàn khu, chiến khu để vừa bảo vệ Đảng, vừa tổ chức và phát triển các đơn vị vũ trang và đội quân chính trị. Tất cả những yếu tố đó tạo nên nguồn lực mạnh mẽ tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19/8/1945. Sức mạnh của quần chúng có được nhờ phát huy dân chủ rộng rãi, đặc biệt trong điều kiện đã giành được chính quyền, thông qua cả hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, nhằm tạo cơ sở xã hội vững chắc cho bảo vệ chính quyền non trẻ.
Ba là, chớp thời cơ do điều kiện bên ngoài mang tới. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh trên chiến trường châu Âu đánh bại phát xít Đức, quân đồng minh tiến hành phản công trên Mặt trận châu Á – Thái Bình Dương đã tạo thời cơ để nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi tổng khởi nghĩa giành độc lập. Đó là một cuộc cách mạng tự giải phóng bằng chính nội lực cách mạng dân tộc Việt Nam; kết quả của nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã bắt tay vào xây dựng một chế độ xã hội mới theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười. “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc”(4). Những thắng lợi mà nhân dân Việt Nam giành được trong cuộc đấu tranh giành độc lập là nguồn động viên to lớn, mang lại niềm tin thắng lợi, tác động mạnh mẽ đến nhiều dân tộc thuộc địa, bị áp bức đứng lên giành độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc, dẫn tới sự tan rã của hệ thống thuộc địa trên thế giới.
Những thành quả, đóng góp trong nhiều mặt, đặc biệt là trong việc bảo đảm công bằng, an sinh xã hội, những giá trị nhân văn, nhân đạo,… mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đạt được theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười là thực tế không thể phủ nhận. Nhân dân thế giới thực sự đang được thừa hưởng những giá trị và di sản mà lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười mang lại.
Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là một sự kiện chấn động cuối thế kỷ XX, là tổn thất to lớn đối với lực lượng cách mạng và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tác động to lớn đến cục diện thế giới. Những công kích, xuyên tạc giá trị to lớn của Cách mạng Tháng Mười của các thế lực chống đối, cơ hội chính trị là không công bằng với hiện thực lịch sử. Nhìn nhận một cách tổng thể, có thể thấy việc hạ thấp, phủ nhận vai trò, lý tưởng, mục tiêu của Cách mạng Tháng Mười, cũng như xuyên tạc vai trò của Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ hai, cứu nhân loại khỏi thảm họa phát xít là những “mắt xích” trong công đoạn phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận những chế độ xã hội dựa trên nền tảng tư tưởng chính trị đó.
Nếu như Cách mạng Tháng Mười không nổ ra thì chắc chắn sẽ không có sự ra đời của nước Nga xô-viết, của Liên Xô, của phe xã hội chủ nghĩa và theo lô-gic đó, phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức cũng không thể đạt được những thắng lợi như đã diễn ra trong lịch sử. Hệ thống các nước thuộc địa và chế độ thực dân hẳn chưa thể chấm dứt sự tồn tại của mình. Và, khi không có sự tồn tại của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển không có đối thủ cạnh tranh sẽ không buộc phải tự điều chỉnh để vượt lên.
Có thể khẳng định rằng, sự sụp đổ của Liên Xô tuyệt đối không đồng nghĩa với sự sụp đổ của những lý tưởng Cách mạng Tháng Mười, mà đó là sự sụp đổ của một mô hình chưa đúng đắn, chưa phù hợp. Sự sụp đổ này có nhiều nguyên nhân. V.I. Lênin đã từng cảnh báo những nguy cơ đe dọa sự tồn tại của chính quyền xô-viết. Những nguy cơ đó đến từ cả hai phía.
Về phía khách quan: đó là sự chống phá của các thế lực thù địch bên ngoài. Sự chống phá đó được thực hiện một cách quyết liệt, quy mô, kiên trì, nhưng hết sức khôn khéo, tinh vi, có bài bản và tự nhiên. Có thể dẫn ở đây một số thí dụ để minh họa. Trong tài liệu “Tấn công tâm lý chống Liên Xô. Những mục tiêu và nhiệm vụ”, đề ngày 10/4/1951, được giải mật vào năm 1976 có đoạn viết “… Nhiệm vụ số 1. Phát hiện và phát triển những giá trị tinh thần, những quan điểm thẩm mỹ và đạo đức của nhân dân Liên Xô, đặc biệt của nhân dân Nga, đồng thời tạo ra sự đồng nhất những giá trị đó với những giá trị của thế giới tự do”(5). Hoặc trong Chỉ lệnh số 68 của Hội đồng An ninh Mỹ được phê chuẩn vào ngày 30/9/1950 xác định “Chúng ta (Mỹ) cần tiến hành cuộc chiến tranh tâm lý công khai nhằm mục đích khơi lên cuộc tạo phản của quần chúng đối với hệ thống xô-viết… Gieo rắc những hạt giống phá hoại từ trong lòng hệ thống xô-viết để buộc Kremli… phải thay đổi đường lối của nó”(6).
Về phía chủ quan: ngay từ trong nội bộ nhà nước xô-viết có nhiều yếu kém, bất cập. Đó là sự thiếu kinh nghiệm, những non kém trong quản lý xã hội của chính quyền xô-viết cùng hệ lụy phát sinh từ những non kém đó; sự chủ quan, duy ý chí, những sai lầm về đường lối, sự xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười trong xây dựng chế độ xã hội mới. Ngay sau Cách mạng Tháng Mười thành công, V.I. Lênin đã từng chỉ ra rằng: thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 chưa phải là thắng lợi cuối cùng và để tới ngày toàn thắng “không lúc nào chúng ta quên rằng, chúng ta đã mắc và còn mắc phải vô số những thất bại và sai lầm”. V.I. Lênin cũng đã cảnh báo “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Sự sụp đổ của Liên Xô đã cảnh tỉnh đối với các nước đang tiếp tục kiên định con đường xã hội chủ nghĩa nhận ra những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, rút ra cho mình những bài học quan trọng về đấu tranh để giữ vững chính quyền cách mạng; về xây dựng Đảng cộng sản cầm quyền, trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết và luôn chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân lao động, ra sức phát huy dân chủ rộng rãi, bảo đảm quyền con người chân chính; về thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc; về xây dựng cơ chế quản lý nền kinh tế; về sự kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin và mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, tìm ra các phương pháp, con đường tiếp cận mới để tiếp tục tiến lên, hiện thực hóa một cách sáng tạo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Vì thế, những tổn thất của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thế kỷ XX không làm suy giảm ý nghĩa lịch sử to lớn và lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười. Những lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười, như độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, hòa bình, dân chủ, bình đẳng, bác ái cho mọi người, xóa bỏ áp bức, bóc lột, xóa nghèo nàn, lạc hậu, phân biệt chủng tộc… vẫn là những giá trị mà hiện nay nhân loại đang tiếp tục theo đuổi và hướng tới. Lý tưởng Cách mạng Tháng Mười mãi mãi soi rọi cho nhân loại trên con đường đấu tranh vì một thế giới hòa bình, công bằng, dân chủ, bình đẳng và tiến bộ./.
– Cách mạng tháng 10/1917 thành công tác động rất lớn đến tư tưởng cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
– Năm 1920, khi đọc được bản sơ thảo luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã có một sự chuyển biến căn bản trong tư tưởng – từ nhận thức của người yêu nước, chuyển sang nhận thức của người cộng sản. Người nhận thấy con đường cứu nước của cách mạng Việt Nam không có con đường nào khác ngoài con đường CM vô sản.
– Cuối năm 1920, Nguyễn Ái Quốc quyết định tham dự Đại hội Đảng xã hội Pháp ở thành phố Tua. Tại Đại hội, Người lên tiếng ủng hộ Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đồng thời cũng là một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp.
MÌnh ghi chi tiết nên hơi dài (xinloi mình l12)
1. Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga
Cách mạng Tháng Mười Nga lùi về quá khứ 100 năm – một khoảng thời gian đủ dài để chúng ta có thể nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, khoa học về tầm vóc, tác động, ý nghĩa của nó, đặc biệt là sau những biến cố lịch sử diễn ra vào cuối thế kỷ XX và xu hướng vận động của thế giới đương đại.
Ngày 25/10 theo lịch Nga (tức ngày 7/11/1917), giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vic đã làm nên cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Sự vận động của các mâu thuẫn xã hội và dân tộc trong lòng xã hội Nga trong những năm đầu thế kỷ XX cùng những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã đưa nước Nga đến tình thế cách mạng trực tiếp, lật đổ ách thống trị của giai cấp địa chủ và tư bản Nga, đáp ứng khát vọng ruộng đất, khát vọng hòa bình, chấm dứt chiến tranh của nông dân, công nhân và binh lính nước Nga. Vì thế cuộc cách mạng này thành công hoàn toàn không phải là một “ngẫu nhiên của lịch sử”.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra cơ hội để hiện thực hóa lý tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, lập ra nhà nước Nga xô-viết – nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, xây dựng một chế độ xã hội mới do nhân dân lao động làm chủ. Ngay sau khi giành được chính quyền, Chính phủ công – nông – binh do V.I. Lênin đứng đầu đã ban hành “Sắc lệnh hòa bình” và “Sắc lệnh ruộng đất”, cùng các chính sách: ngày làm việc 8 giờ, giáo dục và chữa bệnh không mất tiền, nam nữ bình quyền, các dân tộc có quyền bình đẳng, tự do tín ngưỡng… Các chính sách này đã thể hiện tính triệt để của cuộc cách mạng, sự hiện thực hóa tính nhân bản, cao đẹp của lý tưởng Cách mạng Tháng Mười.
Với ý nghĩa, tầm vóc đó, Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động to lớn và sâu sắc đối với sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Thắng lợi của cuộc cách mạng này không chỉ là niềm cổ vũ, động viên, khích lệ, truyền cảm hứng và tinh thần đấu tranh cho giai cấp vô sản, cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới mà còn vạch ra cách thức để giai cấp vô sản thực hiện thành công cuộc cách mạng giành chính quyền, giành quyền làm chủ, giải phóng khỏi sự áp bức, bao gồm cả áp bức dân tộc và áp bức giai cấp. Hơn thế nữa, với sự đời của nhà nước xô-viết đầu tiên trên thế giới, Cách mạng Tháng Mười Nga đã đưa ra một mô hình nhà nước kiểu mới sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền.
Chính lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười đã khơi dậy tính năng động phi thường và sự nỗ lực đặc biệt của toàn thể nhân dân xô-viết đứng lên bảo vệ chính quyền công – nông non trẻ trước sự chống phá điên cuồng của các thế lực phản động trong nước, cùng sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc trong những năm 1917 – 1921. Chính quyền xô – viết đã vượt qua được thử thách ngặt nghèo này nhưng đồng thời đứng trước những thách thức rất lớn: nước Nga bị tàn phá và nghèo khó đến tận cùng.
Tháng 12/1922, Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô – viết (Liên Xô) ra đời; và chỉ sau hai kế hoạch 5 năm thực hiện công nghiệp hóa (1929-1939), Liên Xô đã đạt được những thành tựu vượt bậc trong phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, cũng là nước đầu tiên đưa năng lượng hạt nhân vào phục vụ đời sống hòa bình của con người. Khoa học xô-viết đã tiến tới những đỉnh cao trong tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn. Trở thành một cường quốc công nghiệp, Liên Xô cũng đi đầu trong lĩnh vực chinh phục không gian vũ trụ và nhiều lĩnh vực khác. Những công trình văn hóa, khoa học mà Liên Xô đạt được đã trở thành thành tựu chung của cả nhân loại. Tính ưu việt, nét đặc biệt thể hiện đặc trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười là nhà nước xô-viết đã thực hiện chính sách xã hội công bằng, tiến bộ, vì con người, như thực hiện giáo dục, chữa bệnh không phải trả tiền, người già cô đơn được chăm sóc, nuôi dưỡng…
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Liên Xô bị tấn công. Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, để bảo vệ thành quả mà Cách mạng Tháng Mười mang lại, người dân Liên Xô đã chịu những hy sinh mất mát vô cùng to lớn. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của mình, nhân dân Liên Xô đã góp phần rất quan trọng, trở thành lực lượng quyết định nhất cứu loài người khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít.
Sự ra đời của một loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai và những thành tựu ngoạn mục mà nhân dân Liên Xô đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thức tỉnh hàng triệu triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc, làm cho hệ thống thuộc địa rộng lớn của chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, dẫn tới thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước trên các lục địa Á, Phi và Mỹ La-tinh trong thế kỷ XX; bản đồ thế giới được vẽ lại. Đồng thời, thúc đẩy sự bùng nổ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngay trong lòng các nước tư bản phương Tây.
Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được hình thành, đi theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười đã làm thay đổi hoàn toàn cục diện thế giới, mở ra một thời kỳ đấu tranh cách mạng mới vì những mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, mở ra chân trời mới cho mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội trên thế giới. Một trật tự thế giới hai cực hình thành với một bên là các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã tạo thế cân bằng giữa các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới với các thế lực đế quốc; không cho phép các nước đế quốc tùy tiện sử dụng sức mạnh quân sự của mình để thống trị, nô dịch các dân tộc khác.
Chính sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa và những giá trị nhân văn, nhân đạo mà chế độ đó mang lại cho người dân là một nhân tố quan trọng khiến chủ nghĩa tư bản buộc phải tự điều chỉnh và thay đổi. Những quyền dân sinh, dân chủ, quyền con người… mà nhân dân lao động tại các nước tư bản đấu tranh giành được cũng có một phần nhờ ảnh hưởng to lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.
2. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga tới Việt Nam
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã có ảnh hưởng trực tiếp, nhiều mặt đến việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.
Cách mạng Tháng Mười Nga, trước tiên đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới Nguyễn Ái Quốc – người thanh niên Việt Nam yêu nước đang bôn ba ở nhiều quốc gia để tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp.
Bị thu hút bởi sự kiện lịch sử gây chấn động thế giới, Nguyễn Ái Quốc được tiếp cận với Luận cương của V.I. Lênin “Về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” khi còn ở Pháp. Chính từ trong bản luận cương này Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Điều đó được thể hiện rõ trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (năm 1927) của Người. Trong tác phẩm này, Người khẳng định: “Chỉ có đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười – con đường duy nhất đúng đắn – cách mạng Việt Nam mới giành được độc lập, tự do thực sự”. Đánh giá Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(1).
Đến với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa xã hội, những người yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX “tựa như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Từ “cảm tình” đến niềm tin khoa học, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi và chính Người đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười. Ngay từ khi Đảng còn hoạt động bí mật, mỗi dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười là một dịp sinh hoạt chính trị sâu rộng trong xã hội, là dịp mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong nhân dân thông qua công tác tuyên truyền sâu rộng, là dịp đấu tranh chính trị của các chiến sĩ trong nhà tù dưới hình thức tổ chức kỷ niệm… làm cho kẻ thù rất lo sợ, đối phó.
Lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười, chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin, những bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng vĩ đại này về nghệ thuật đấu tranh giành và giữ chính quyền,… được Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa cách mạng nước ta vượt qua nhiều khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn. Có thể khái quát ở một số nét lớn sau:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng được V.I. Lênin vận dụng rất thành công trong Cách mạng Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành công: “cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”(2). Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ mục tiêu, vai trò và nhiệm vụ của một đảng cách mạng: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(3).
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ phong kiến và ách thống trị thực dân. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đó, sau 9 năm thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” vào năm 1954. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (năm 1975), đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Nguyễn Ái Quốc luôn khẳng định đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân đứng lên chống thực dân đế quốc, giải phóng dân tộc. Do đó, Người đã chủ trương “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, “Thành công, thành công, đại thành công”, với nhiều tầng đoàn kết: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Đảng phải chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó tập hợp rộng rãi các tầng lớp xã hội, các giới đồng bào, các dân tộc và tôn giáo,… để huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Lực lượng giai cấp, dân tộc được tập hợp và phát huy sức mạnh trong các đoàn thể cứu quốc, trong Mặt trận Việt Minh, tạo dựng an toàn khu, chiến khu để vừa bảo vệ Đảng, vừa tổ chức và phát triển các đơn vị vũ trang và đội quân chính trị. Tất cả những yếu tố đó tạo nên nguồn lực mạnh mẽ tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19/8/1945. Sức mạnh của quần chúng có được nhờ phát huy dân chủ rộng rãi, đặc biệt trong điều kiện đã giành được chính quyền, thông qua cả hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, nhằm tạo cơ sở xã hội vững chắc cho bảo vệ chính quyền non trẻ.
Ba là, chớp thời cơ do điều kiện bên ngoài mang tới. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh trên chiến trường châu Âu đánh bại phát xít Đức, quân đồng minh tiến hành phản công trên Mặt trận châu Á – Thái Bình Dương đã tạo thời cơ để nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi tổng khởi nghĩa giành độc lập. Đó là một cuộc cách mạng tự giải phóng bằng chính nội lực cách mạng dân tộc Việt Nam; kết quả của nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã bắt tay vào xây dựng một chế độ xã hội mới theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười. “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc”(4). Những thắng lợi mà nhân dân Việt Nam giành được trong cuộc đấu tranh giành độc lập là nguồn động viên to lớn, mang lại niềm tin thắng lợi, tác động mạnh mẽ đến nhiều dân tộc thuộc địa, bị áp bức đứng lên giành độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc, dẫn tới sự tan rã của hệ thống thuộc địa trên thế giới.
Những thành quả, đóng góp trong nhiều mặt, đặc biệt là trong việc bảo đảm công bằng, an sinh xã hội, những giá trị nhân văn, nhân đạo,… mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đạt được theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười là thực tế không thể phủ nhận. Nhân dân thế giới thực sự đang được thừa hưởng những giá trị và di sản mà lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười mang lại.
Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là một sự kiện chấn động cuối thế kỷ XX, là tổn thất to lớn đối với lực lượng cách mạng và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tác động to lớn đến cục diện thế giới. Những công kích, xuyên tạc giá trị to lớn của Cách mạng Tháng Mười của các thế lực chống đối, cơ hội chính trị là không công bằng với hiện thực lịch sử. Nhìn nhận một cách tổng thể, có thể thấy việc hạ thấp, phủ nhận vai trò, lý tưởng, mục tiêu của Cách mạng Tháng Mười, cũng như xuyên tạc vai trò của Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ hai, cứu nhân loại khỏi thảm họa phát xít là những “mắt xích” trong công đoạn phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận những chế độ xã hội dựa trên nền tảng tư tưởng chính trị đó.
Nếu như Cách mạng Tháng Mười không nổ ra thì chắc chắn sẽ không có sự ra đời của nước Nga xô-viết, của Liên Xô, của phe xã hội chủ nghĩa và theo lô-gic đó, phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức cũng không thể đạt được những thắng lợi như đã diễn ra trong lịch sử. Hệ thống các nước thuộc địa và chế độ thực dân hẳn chưa thể chấm dứt sự tồn tại của mình. Và, khi không có sự tồn tại của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển không có đối thủ cạnh tranh sẽ không buộc phải tự điều chỉnh để vượt lên.
Có thể khẳng định rằng, sự sụp đổ của Liên Xô tuyệt đối không đồng nghĩa với sự sụp đổ của những lý tưởng Cách mạng Tháng Mười, mà đó là sự sụp đổ của một mô hình chưa đúng đắn, chưa phù hợp. Sự sụp đổ này có nhiều nguyên nhân. V.I. Lênin đã từng cảnh báo những nguy cơ đe dọa sự tồn tại của chính quyền xô-viết. Những nguy cơ đó đến từ cả hai phía.
Về phía khách quan: đó là sự chống phá của các thế lực thù địch bên ngoài. Sự chống phá đó được thực hiện một cách quyết liệt, quy mô, kiên trì, nhưng hết sức khôn khéo, tinh vi, có bài bản và tự nhiên. Có thể dẫn ở đây một số thí dụ để minh họa. Trong tài liệu “Tấn công tâm lý chống Liên Xô. Những mục tiêu và nhiệm vụ”, đề ngày 10/4/1951, được giải mật vào năm 1976 có đoạn viết “… Nhiệm vụ số 1. Phát hiện và phát triển những giá trị tinh thần, những quan điểm thẩm mỹ và đạo đức của nhân dân Liên Xô, đặc biệt của nhân dân Nga, đồng thời tạo ra sự đồng nhất những giá trị đó với những giá trị của thế giới tự do”(5). Hoặc trong Chỉ lệnh số 68 của Hội đồng An ninh Mỹ được phê chuẩn vào ngày 30/9/1950 xác định “Chúng ta (Mỹ) cần tiến hành cuộc chiến tranh tâm lý công khai nhằm mục đích khơi lên cuộc tạo phản của quần chúng đối với hệ thống xô-viết… Gieo rắc những hạt giống phá hoại từ trong lòng hệ thống xô-viết để buộc Kremli… phải thay đổi đường lối của nó”(6).
Về phía chủ quan: ngay từ trong nội bộ nhà nước xô-viết có nhiều yếu kém, bất cập. Đó là sự thiếu kinh nghiệm, những non kém trong quản lý xã hội của chính quyền xô-viết cùng hệ lụy phát sinh từ những non kém đó; sự chủ quan, duy ý chí, những sai lầm về đường lối, sự xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười trong xây dựng chế độ xã hội mới. Ngay sau Cách mạng Tháng Mười thành công, V.I. Lênin đã từng chỉ ra rằng: thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 chưa phải là thắng lợi cuối cùng và để tới ngày toàn thắng “không lúc nào chúng ta quên rằng, chúng ta đã mắc và còn mắc phải vô số những thất bại và sai lầm”. V.I. Lênin cũng đã cảnh báo “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Sự sụp đổ của Liên Xô đã cảnh tỉnh đối với các nước đang tiếp tục kiên định con đường xã hội chủ nghĩa nhận ra những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, rút ra cho mình những bài học quan trọng về đấu tranh để giữ vững chính quyền cách mạng; về xây dựng Đảng cộng sản cầm quyền, trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết và luôn chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân lao động, ra sức phát huy dân chủ rộng rãi, bảo đảm quyền con người chân chính; về thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc; về xây dựng cơ chế quản lý nền kinh tế; về sự kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin và mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, tìm ra các phương pháp, con đường tiếp cận mới để tiếp tục tiến lên, hiện thực hóa một cách sáng tạo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Vì thế, những tổn thất của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thế kỷ XX không làm suy giảm ý nghĩa lịch sử to lớn và lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười. Những lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười, như độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, hòa bình, dân chủ, bình đẳng, bác ái cho mọi người, xóa bỏ áp bức, bóc lột, xóa nghèo nàn, lạc hậu, phân biệt chủng tộc… vẫn là những giá trị mà hiện nay nhân loại đang tiếp tục theo đuổi và hướng tới. Lý tưởng Cách mạng Tháng Mười mãi mãi soi rọi cho nhân loại trên con đường đấu tranh vì một thế giới hòa bình, công bằng, dân chủ, bình đẳng và tiến bộ./.