Thuyết trình về giun đất
Ai thuyết trình giúp mik với
0 bình luận về “Thuyết trình về giun đất Ai thuyết trình giúp mik với”
Giun đất là tên thông thường của các thành viên lớn nhất của phân lớp Oligochaeta (thuộc một lớp hoặc phân lớp tùy theo tác giả phân loại) trong ngành Annelida.
Giun đất thường sống ở những khu vực đất ẩm ướt, ruộng đồng, nương rẫy, đất hoang sơ,… nơi có nhiều mùn hữu cơ. Chúng có vai trò to lớn đối với ngành nông nghiệp do chúng làm đất tơi xốp và tăng độ phì nhiêu của đất. Giun đất còn là thức ăn cho gia súc và gia cầm.
Chúng là loài động vật không xương sống, thuộc Ngành Giun đốt. Giun đất là các loài lưỡng tính và có một bộ phận đặc trưng gọi là bao sinh dục. Chúng sử dụng bộ phận này trong quá trình giao phối. Sau khi giao phối thành công, bao này sẽ chứa đầy trứng đã thụ tinh và sẽ được giun “tháo” ra, từ đó nở ra thế hệ giun tiếp theo. Giun đất có khả năng phục hồi lại toàn bộ cơ thể đã mất nếu như phần đầu còn nguyên vẹn, nhưng không như mọi người vẫn lầm tưởng, chúng không có khả năng tạo ra các cá thể mới khi bị chia nhỏ thành nhiều đoạn.
Giun đất có khoảng 2500 loài. Đầu giun có cơ phát triển và trơn để đào chui trong đất.Mình giun có chất nhờn để da ẩm ướt,giảm ma sát khi chui trong đất. Giun đất có màu nâu khi ở trong lòng đất,có màu rêu khi sống trong rêu.
– Giun đất cày xới đất làm cho đất tơi xốp, có vai trò quan trọng đối với cây trồng và các cây cối trong tự nhiên.
– Là thức ăn cho các loài khác: giun đất là thức ăn cho gia cầm, các loài giun đốt biển ( giun nhiều tơ, rọm, sá sùng,…) là thức ăn cho 1 số động vật nước, giun đỏ là thức ăn cho cá cảnh.
– Tuy nhiên, có một số loài như đỉa, vắt là vật kí sinh gây hại cho động vật.
Giun đất là tên thông thường của các thành viên lớn nhất của phân lớp Oligochaeta (thuộc một lớp hoặc phân lớp tùy theo tác giả phân loại) trong ngành Annelida.
Giun đất thường sống ở những khu vực đất ẩm ướt, ruộng đồng, nương rẫy, đất hoang sơ,… nơi có nhiều mùn hữu cơ. Chúng có vai trò to lớn đối với ngành nông nghiệp do chúng làm đất tơi xốp và tăng độ phì nhiêu của đất. Giun đất còn là thức ăn cho gia súc và gia cầm.
Chúng là loài động vật không xương sống, thuộc Ngành Giun đốt. Giun đất là các loài lưỡng tính và có một bộ phận đặc trưng gọi là bao sinh dục. Chúng sử dụng bộ phận này trong quá trình giao phối. Sau khi giao phối thành công, bao này sẽ chứa đầy trứng đã thụ tinh và sẽ được giun “tháo” ra, từ đó nở ra thế hệ giun tiếp theo. Giun đất có khả năng phục hồi lại toàn bộ cơ thể đã mất nếu như phần đầu còn nguyên vẹn, nhưng không như mọi người vẫn lầm tưởng, chúng không có khả năng tạo ra các cá thể mới khi bị chia nhỏ thành nhiều đoạn.
Giun đất có khoảng 2500 loài. Đầu giun có cơ phát triển và trơn để đào chui trong đất.Mình giun có chất nhờn để da ẩm ướt,giảm ma sát khi chui trong đất. Giun đất có màu nâu khi ở trong lòng đất,có màu rêu khi sống trong rêu.
– Giun đất cày xới đất làm cho đất tơi xốp, có vai trò quan trọng đối với cây trồng và các cây cối trong tự nhiên.
– Là thức ăn cho các loài khác: giun đất là thức ăn cho gia cầm, các loài giun đốt biển ( giun nhiều tơ, rọm, sá sùng,…) là thức ăn cho 1 số động vật nước, giun đỏ là thức ăn cho cá cảnh.
– Tuy nhiên, có một số loài như đỉa, vắt là vật kí sinh gây hại cho động vật.
Chúc bạn học tốt !