tìm hiểu về trần nhân tông (năm sinh năm mất những tiểu sử cơ bản về trần nhân tông)
0 bình luận về “tìm hiểu về trần nhân tông (năm sinh năm mất những tiểu sử cơ bản về trần nhân tông)”
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức ngày 7 tháng 12 năm 1258). Ông là con trai đầu lòng của Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu Trần Thị Thiều.Trần Khâm ngay từ khi sinh ra đã được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, nên vua cha và ông nội – Thái thượng hoàngTrần Thái Tông đã gọi ông là Kim Tiên đồng tử .Người xưa đều kể rằng bên vai phải Trần Khâm có nốt ruồi đen lớn như hạt đậu; người xem tướng đoán rằng hoàng tử về sau sẽ làm được việc lớn.
Trần Nhân Tông sinh ngày7 tháng 12năm1258–16 tháng 12năm1308) tên khai sinh làTrần Khâm(陳昑), là vịhoàng đếthứ ba củaHoàng triều TrầnnướcĐại Việt. Ông trị vì từ ngày 8 tháng 11 năm1278đến ngày 16 tháng 4 năm1293, sau đó làmThái thượng hoàngcho đến khiqua đời. Trần Nhân Tông được sử Việt đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững củaĐại Việtcuốithế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương thổ đất nước.Ngoài ra, ông cũng là mộtthiền sưlớn củaPhật giáo Việt Namthờitrung đại.Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Là đích trưởng tử củaTrần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đã được truyền ngôi vàotháng 11năm1278– lúc ông chưa đầy 20 tuổi. Vịhoàng đếtrẻ sớm phải đương đầu với hiểm họaxâm lượctừđế quốc Mông – Nguyênhùng mạnh ở phương Bắc. Do vậy, ngay sau khi lên ngôi Trần Nhân Tông đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức mạnhkinh tếvà ổn địnhchính trị–xã hộicủa Đại Việt, đồng thời xây dựng quan hệ tích cực với nước láng giềng phía nam làChiêm Thành. Năm1285, hoàng đế nhà NguyênHốt Tất Liệthuy động đã một lực lượng lớn (theoĐại Việt sử ký toàn thưlà 50 vạn người)tấn côngĐại Việt.Quân dân Đại Việt ban đầu gặp nhiều tổn thất; nhưng dưới sự chỉ huy của vua Nhân Tông, Thượng hoàng Thánh Tông và Quốc công Tiết chếTrần Hưng Đạo, người Việt đã dần dần xoay chuyển tình thế và đánh bật quân Nguyên ra khỏi đất nước. Sau đó, 2vua TrầnvàHưng Đạo vươngtiếp tục lãnh đạo dân Việtđánh bại một cuộc xâm lược kháccủa Mông – Nguyên vào năm1287.
Sau khi đẩy lùi các cuộc xâm lược củangười Mông Cổ, Trần Nhân Tông đã khôi phục được sự hưng thịnh củaĐại Việtđồng thời thực thi phương sách ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên. Năm 1293, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên (tức vuaTrần Anh Tông) và lên làmThái thượng hoàng.Sau đó Nhân Tông xuất gia tu hành theođạo Phậtvà lấy hiệuTrúc Lâm Đại sĩ nhưng ông vẫn tham gia điều hành chính sự, đánh dẹp quânAi Laoxâm phạm biên giới và mở rộng bờ cõi về phương Nam bằng phương pháp ngoại giao.Trần Nhân Tông cũng chính là vị tổ sáng lậpThiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắcvăn hóa Việt Namvà tinh thần nhập thế.[9]
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức ngày 7 tháng 12 năm 1258). Ông là con trai đầu lòng của Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu Trần Thị Thiều.Trần Khâm ngay từ khi sinh ra đã được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, nên vua cha và ông nội – Thái thượng hoàng Trần Thái Tông đã gọi ông là Kim Tiên đồng tử .Người xưa đều kể rằng bên vai phải Trần Khâm có nốt ruồi đen lớn như hạt đậu; người xem tướng đoán rằng hoàng tử về sau sẽ làm được việc lớn.
Trần Nhân Tông sinh ngày 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308) tên khai sinh là Trần Khâm (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của Hoàng triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì từ ngày 8 tháng 11 năm 1278 đến ngày 16 tháng 4 năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời. Trần Nhân Tông được sử Việt đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương thổ đất nước. Ngoài ra, ông cũng là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Là đích trưởng tử của Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đã được truyền ngôi vào tháng 11 năm 1278 – lúc ông chưa đầy 20 tuổi. Vị hoàng đế trẻ sớm phải đương đầu với hiểm họa xâm lược từ đế quốc Mông – Nguyên hùng mạnh ở phương Bắc. Do vậy, ngay sau khi lên ngôi Trần Nhân Tông đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức mạnh kinh tế và ổn định chính trị – xã hội của Đại Việt, đồng thời xây dựng quan hệ tích cực với nước láng giềng phía nam là Chiêm Thành. Năm 1285, hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt huy động đã một lực lượng lớn (theo Đại Việt sử ký toàn thư là 50 vạn người) tấn công Đại Việt. Quân dân Đại Việt ban đầu gặp nhiều tổn thất; nhưng dưới sự chỉ huy của vua Nhân Tông, Thượng hoàng Thánh Tông và Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo, người Việt đã dần dần xoay chuyển tình thế và đánh bật quân Nguyên ra khỏi đất nước. Sau đó, 2 vua Trần và Hưng Đạo vương tiếp tục lãnh đạo dân Việt đánh bại một cuộc xâm lược khác của Mông – Nguyên vào năm 1287.
Sau khi đẩy lùi các cuộc xâm lược của người Mông Cổ, Trần Nhân Tông đã khôi phục được sự hưng thịnh của Đại Việt đồng thời thực thi phương sách ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên. Năm 1293, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái thượng hoàng.Sau đó Nhân Tông xuất gia tu hành theo đạo Phật và lấy hiệu Trúc Lâm Đại sĩ nhưng ông vẫn tham gia điều hành chính sự, đánh dẹp quân Ai Lao xâm phạm biên giới và mở rộng bờ cõi về phương Nam bằng phương pháp ngoại giao. Trần Nhân Tông cũng chính là vị tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam và tinh thần nhập thế.[9]