trình bày suy nghĩ của em về kết của văn bản “những ngôi sao xa xôi”=1 đoạn văn tph
0 bình luận về “trình bày suy nghĩ của em về kết của văn bản “những ngôi sao xa xôi”=1 đoạn văn tph”
Tiếp cận với chiến tranh, miêu tả chiến tranh có nhiều cách, của nhiều người. Tuy nhiên, chiến tranh đã và sẽ qua đi, cái gì từ những trang văn còn lại ? Câu hỏi ấy phải chờ đến thời gian, người trọng tài công minh nhất chưa một lần bỏ sót tài năng. Vậy, Những ngôi sao xa xôi liệu có phải là một trong số ứng cử viên được bầu chọn ?
Điều sáng giá nhất tạo nên một cái nhìn không nhàm chán về chiến tranh, đối lập với chiến tranh là cái nhìn và khắc hoạ chân dung các cô gái. Bức tranh dữ dội về cái sống và cái chết nơi đạn bom trận mạc có được một thứ đường viền cứ óng ánh lên từ cái nhìn trong trẻo ấy. Ấy là chưa nói nhân vật trong truyện bước vào cuộc chiến đấu đầy ắp những ảo tưởng. Tưởng rằng gia nhập một đơn vị thanh niên xung phong ngoài hoả tuyến là “phải vác súng kia, đi rầm rộ dưới những cánh rừng không trăng sao. Nói với nhau phải mạnh và gọn như những câu khẩu hiệu”, nghĩa là oai hùng lắm, một thứ hào quang của một thế hệ nếu không vừa rời ghế nhà trường thì cũng gần như thế. Dày dạn trước cái sống và cái chết hằng ngày mà chị Thao còn sợ máu, sợ nước mắt. Phương Định thì sợ nhất: cô đơn. Giữa tiếng bom địch gào thét, chỉ cần một tiếng súng bắn trả, “dù chỉ một tiếng súng trường thôi, con người cũng thấy mênh mông bên mình một sự che chở đồng tình”. Gian khổ, thiếu thốn đến cùng cực, nhiều bữa cơm không có canh, bọn con gái lấy nước uống chan vào. Nhưng khi biết rằng “bọn con trai phải kêu lên vì thương”, thế là đời lại tươi lên như không có gì đáng phàn nàn, lo lắng. Cuộc nói chuyện của nhân vật nữ xưng “tôi” với đại đội trưởng đơn vị trong điện thoại có lúc gắt lên: “Trinh sát chưa về”, nhưng một cái gì đấy như ấm lòng hơn khi hình ảnh người cán bộ chỉ huy ấy hiện lên dưới con mắt dịu dàng con gái “Đại đội trưởng rất hay dùng những từ tế nhị như “cảm ơn”, “xin lỗi”, “chúc may mắn”. Anh trẻ, người gầy, hay đau khớp, hay làm ca dao cho báo tường. Nhà đâu như cuối phố Lò Đúc”.
Trong bối cảnh khắc nghiệt của chiến tranh, bao nhiêu tình cảm mới mẻ hình thành như tình đồng chí, tình bạn bè. Tất cả được cảm nhận bằng nỗi niềm riêng như thế. Có nhiều anh pháo thủ và lái xe hay hỏi thăm, còn viết thư cho một cô gái (nhân vật tôi) làm trinh sát mặt đường, “những thư dài gửi đường dây, làm như ở cách xa nhau hàng nghìn cây số, mặc dù có thể chào nhau hằng ngày”. Cách tỏ tình thời hiện đại trong chiến tranh qua cách nhìn riêng này không phải không thú vị. Còn gì âu yếm hơn khi gặp một đồng đội vừa tắm ở dưới suối lên: “Tôi muốn bế nó lên tay. Trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng”.
Họ thực sự là những anh hùng không tự biết, tình nguyện vào cái nơi mà cái sự mất, còn chỉ diễn ra trong nháy mắt. Hơn ai hết họ biết thần chết là ai, “Thần chết là một tay không thích đùa. Hắn ta lẩn trong ruột những quả bom”. Nhưng có điều lạ là cái chết đối với họ chưa bao giờ là một ám ảnh, chưa bao giờ phải trằn trọc đêm đêm. “Bao giờ thì xong nhỉ”, “cái gì xong ?”,… Những câu hỏi bâng quơ dường như không hiểu mấy về chiến tranh nói về những mơ ước xôn xao sau đó. Nho bảo xong chiến tranh sẽ làm thợ hàn của một nhà máy thuỷ điện lớn, thành cầu thủ bóng chuyền. Chị Thao muốn làm y sĩ. Chồng chị sẽ là một anh bộ đội đeo quân hàm trung uý, hay đi xa và có râu quai nón, còn nhân vật “tôi” chưa biết lựa chọn thế nào: kiến trúc sư, thuyết minh trong rạp chiếu bóng thiếu nhi, lái xe ở cảng,… Chao ôi ! Họ là những người ham sống biết bao ! Cuộc đời phía trước là một ngày hội lớn. Có một tương lai, một tương lai hiển hiện mà giống như một giấc chiêm bao, họ còn có cả một quá khứ. Cái quá khứ ấy của Phương Định (nhân vật “tôi”) dù chỉ thu gọn trong một căn phòng nhỏ gác hai, nó có sức mở rộng ra cả một thế giới cảm giác đêm đêm để cô biết được “cái bao la và trong lành của đêm thành phố”. Ở cái căn gác nhỏ ấy đầy ắp kỉ niệm của thương yêu, nơi cô thề là sẽ không lấy chồng vì cái tính bừa bãi mà mẹ cô đã từng doạ “Lấy chồng rồi mà no đòn”, đó thật sự là một hạnh phúc.
Có tương lai đang hứa hẹn từng giờ, có quá khứ để ràng buộc, những cô gái không xem đó là những nơi ẩn nấp để thu mình. Cái mà họ đang đối mặt là sự còn, mất từng phút, từng giây. Không khí của chiến tranh (không giống tương lai hay quá khứ) có một âm điệu riêng. Chẳng hạn như sự im lặng: “Cuộc sống ở đây đã dạy cho chúng tôi thế nào là sự im lặng”. Im lặng có nghĩa là cái chết đang rình rập đâu đây, nó ập đến bất cứ lúc nào. Ấy là những trái bom, mà “nghe tiếng bom đầu tiên, có đứa chết giấc, nằm dán xuống đất”. Nhưng, cái im lặng của không gian còn chưa đáng sợ bằng cái im lặng của lòng người. Đây là cái “vắng lặng đến phát sợ” của kẻ đi đêm sợ ma, yếu bóng vía. Đến với toạ độ chết, đến với quả bom cần phải phá nổ (mà không biết nó sẽ nổ vào lúc nào), sự cầu viện tâm linh của cô gái (nhân vật tôi) giống như một ảo ảnh “Các anh cao xạ có nhìn thấy chúng tôi không ?”. Mặc dù “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần”, nhưng cái hồi hộp vẫn dường như không hể thay đổi. Như cái cảm giác chờ bom phát nổ: tất cả đều đứng im, cả gió, cả nhịp tim trong lồng ngực. Chỉ có chiếc đồng hồ: “Nó chạy, sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh cửu…”. Còn sau mỗi lần bom nổ, như từ cõi chết trở về đây là gương mặt tươi tắn của chị Thao “Chị cười răng trắng, vết sẹo bóng lên, mảnh dù bay trên lưng…”, còn với Phương Định, cái chết chỉ là khái niệm “mờ nhạt, không cụ thể”. Tuy dặn mình phải cảnh giác với nó, nhưng không phải là sợ nó mà chỉ vì sợ nếu “mảnh bom ghim vào cánh tay thì khá phiền”. Còn khi tưởng là Nho đã chết, tất cả đều lặng đi với bao nhiêu tâm trạng trái ngược nhau. Kẻ muốn hát, người thì muốn khóc. Chị Thao muốn hát và chị đã hát, một bài hát có phần lạc lõng (“Đây Thăng Long, đây Đông Đô… Hà Nội”). Nhạc sai bét, còn giọng thì chua, nhưng tình cảm rất đỗi chân thành: ấy là một khúc thánh ca. Còn người thứ hai, thích hát, hát hay “nhưng không muốn hát lúc này” vì những bài hành khúc bộ đội hành quân hay quan họ mềm mại, nhưng với Phương Định, tất cả đều không đúng chỗ. Trước đau thương, cũng là trước cái đẹp, cái cao cả, cái vĩnh hằng, chưa có một bài ca nào diễn tả nổi.
Đặc sắc nghệ thuật ở truyện ngắn này là cách xây dựng nhân vật và sự phối hợp giữa hai bút pháp: tự sự, trữ tình.
Về xây dựng nhân vật, tác giả rất lưu ý đến sự đa dạng. Mỗi nhân vật có những đặc điểm không giống nhau. Nho, mộc mạc và thơ mộng. Còn gì mộc mạc hơn, thậm chí vụng về hơn, trên cái gối nhỏ nhắn, màu trắng, Nho thêu những bông hoa cẩu thả và loè loẹt, những “đường viền to như dây thừng”, vì một lẽ đương nhiên “A, cho nó nối !”. Có đến hai chi tiết, hai lần miêu tả Nho ở dưới suối đi lên, và cả hai lần Nho đều rất đẹp. Lần thứ nhất: “Tóc ướt. Nước đọng từng giọt trong trên trán và trên mũi”. Lần thứ hai: “cứ quần áo ướt ngồi đòi ăn kẹo”. Cái thực của nhân vật gần với cái thực trong mơ, vì tất cả không liên quan gì đến sự căng thẳng ở chiến trường, nó thuộc về vĩnh cửu. Còn chị Thao giống như một sự phân thân. Là một người con gái rất sợ máu và vắt, cứ thấy máu và vắt là chị “nhắm mắt lại, mặt tái mét”, nhưng trước lúc “có chuyện”, trong khi Nho chụp cái mũ sắt lên đầu, chị Thao lại “móc bánh bích quy trong túi thong thả nhai”. Trước tình huống Nho có thể hi sinh, chị yêu cầu Định hát, nhưng có trời mới biết “những tình cảm gì đang quay cuồng” ở trong đầu con người giàu nghị lực ấy.
Còn về sự đan cài giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn thể hiện trong tâm hồn người con gái như những trận mưa bóng mây chợt đi chợt đến, bất ngờ. Nó giống như những vì sao, những đốm sáng. Một mặt chiến trường là một nhận thức hiện thực, thậm chí hiện thực nghiệt ngã “ở đây là nơi mà tuổi trẻ chúng tôi đang lớn lên”, nhưng còn nỗi nhớ là hiện thực thứ hai, hiện thực tâm hồn “không lúc nào chúng tôi không nhớ về Hà Nội”, cả hai không tách rời nhau tạo được một thứ âm hưởng bè đôi rất giàu có chất thơ, là một trong những thành công của tác giả. Cái kết của truyện đẩy sự kết hợp trên đây đến mức thăng hoa. Một trận mưa đá bất ngờ trở thành nỗi nhớ “Mà tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố”. Nỗi nhớ ấy chính là sự nối dài, quá khứ, hôm nay và khát vọng mai sau. Những ngôi sao trong câu chuyện cổ tích, về những xứ sở thần tiên, trong bối cảnh của cuộc chiến tranh, nó giống như một huyền thoại có một sức mạnh diệu kì để con người đi tới với đôi cánh đang bay. Hiện thực và lãng mạn, âm điệu trữ tình bay bổng cứ toả ánh sáng ra từ đó, từ “Những ngôi sao xa xôi”.
Tiếp cận với chiến tranh, miêu tả chiến tranh có nhiều cách, của nhiều người. Tuy nhiên, chiến tranh đã và sẽ qua đi, cái gì từ những trang văn còn lại ? Câu hỏi ấy phải chờ đến thời gian, người trọng tài công minh nhất chưa một lần bỏ sót tài năng. Vậy, Những ngôi sao xa xôi liệu có phải là một trong số ứng cử viên được bầu chọn ?
Điều sáng giá nhất tạo nên một cái nhìn không nhàm chán về chiến tranh, đối lập với chiến tranh là cái nhìn và khắc hoạ chân dung các cô gái. Bức tranh dữ dội về cái sống và cái chết nơi đạn bom trận mạc có được một thứ đường viền cứ óng ánh lên từ cái nhìn trong trẻo ấy. Ấy là chưa nói nhân vật trong truyện bước vào cuộc chiến đấu đầy ắp những ảo tưởng. Tưởng rằng gia nhập một đơn vị thanh niên xung phong ngoài hoả tuyến là “phải vác súng kia, đi rầm rộ dưới những cánh rừng không trăng sao. Nói với nhau phải mạnh và gọn như những câu khẩu hiệu”, nghĩa là oai hùng lắm, một thứ hào quang của một thế hệ nếu không vừa rời ghế nhà trường thì cũng gần như thế. Dày dạn trước cái sống và cái chết hằng ngày mà chị Thao còn sợ máu, sợ nước mắt. Phương Định thì sợ nhất: cô đơn. Giữa tiếng bom địch gào thét, chỉ cần một tiếng súng bắn trả, “dù chỉ một tiếng súng trường thôi, con người cũng thấy mênh mông bên mình một sự che chở đồng tình”. Gian khổ, thiếu thốn đến cùng cực, nhiều bữa cơm không có canh, bọn con gái lấy nước uống chan vào. Nhưng khi biết rằng “bọn con trai phải kêu lên vì thương”, thế là đời lại tươi lên như không có gì đáng phàn nàn, lo lắng. Cuộc nói chuyện của nhân vật nữ xưng “tôi” với đại đội trưởng đơn vị trong điện thoại có lúc gắt lên: “Trinh sát chưa về”, nhưng một cái gì đấy như ấm lòng hơn khi hình ảnh người cán bộ chỉ huy ấy hiện lên dưới con mắt dịu dàng con gái “Đại đội trưởng rất hay dùng những từ tế nhị như “cảm ơn”, “xin lỗi”, “chúc may mắn”. Anh trẻ, người gầy, hay đau khớp, hay làm ca dao cho báo tường. Nhà đâu như cuối phố Lò Đúc”.
Trong bối cảnh khắc nghiệt của chiến tranh, bao nhiêu tình cảm mới mẻ hình thành như tình đồng chí, tình bạn bè. Tất cả được cảm nhận bằng nỗi niềm riêng như thế. Có nhiều anh pháo thủ và lái xe hay hỏi thăm, còn viết thư cho một cô gái (nhân vật tôi) làm trinh sát mặt đường, “những thư dài gửi đường dây, làm như ở cách xa nhau hàng nghìn cây số, mặc dù có thể chào nhau hằng ngày”. Cách tỏ tình thời hiện đại trong chiến tranh qua cách nhìn riêng này không phải không thú vị. Còn gì âu yếm hơn khi gặp một đồng đội vừa tắm ở dưới suối lên: “Tôi muốn bế nó lên tay. Trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng”.
Họ thực sự là những anh hùng không tự biết, tình nguyện vào cái nơi mà cái sự mất, còn chỉ diễn ra trong nháy mắt. Hơn ai hết họ biết thần chết là ai, “Thần chết là một tay không thích đùa. Hắn ta lẩn trong ruột những quả bom”. Nhưng có điều lạ là cái chết đối với họ chưa bao giờ là một ám ảnh, chưa bao giờ phải trằn trọc đêm đêm. “Bao giờ thì xong nhỉ”, “cái gì xong ?”,… Những câu hỏi bâng quơ dường như không hiểu mấy về chiến tranh nói về những mơ ước xôn xao sau đó. Nho bảo xong chiến tranh sẽ làm thợ hàn của một nhà máy thuỷ điện lớn, thành cầu thủ bóng chuyền. Chị Thao muốn làm y sĩ. Chồng chị sẽ là một anh bộ đội đeo quân hàm trung uý, hay đi xa và có râu quai nón, còn nhân vật “tôi” chưa biết lựa chọn thế nào: kiến trúc sư, thuyết minh trong rạp chiếu bóng thiếu nhi, lái xe ở cảng,… Chao ôi ! Họ là những người ham sống biết bao ! Cuộc đời phía trước là một ngày hội lớn. Có một tương lai, một tương lai hiển hiện mà giống như một giấc chiêm bao, họ còn có cả một quá khứ. Cái quá khứ ấy của Phương Định (nhân vật “tôi”) dù chỉ thu gọn trong một căn phòng nhỏ gác hai, nó có sức mở rộng ra cả một thế giới cảm giác đêm đêm để cô biết được “cái bao la và trong lành của đêm thành phố”. Ở cái căn gác nhỏ ấy đầy ắp kỉ niệm của thương yêu, nơi cô thề là sẽ không lấy chồng vì cái tính bừa bãi mà mẹ cô đã từng doạ “Lấy chồng rồi mà no đòn”, đó thật sự là một hạnh phúc.
Có tương lai đang hứa hẹn từng giờ, có quá khứ để ràng buộc, những cô gái không xem đó là những nơi ẩn nấp để thu mình. Cái mà họ đang đối mặt là sự còn, mất từng phút, từng giây. Không khí của chiến tranh (không giống tương lai hay quá khứ) có một âm điệu riêng. Chẳng hạn như sự im lặng: “Cuộc sống ở đây đã dạy cho chúng tôi thế nào là sự im lặng”. Im lặng có nghĩa là cái chết đang rình rập đâu đây, nó ập đến bất cứ lúc nào. Ấy là những trái bom, mà “nghe tiếng bom đầu tiên, có đứa chết giấc, nằm dán xuống đất”. Nhưng, cái im lặng của không gian còn chưa đáng sợ bằng cái im lặng của lòng người. Đây là cái “vắng lặng đến phát sợ” của kẻ đi đêm sợ ma, yếu bóng vía. Đến với toạ độ chết, đến với quả bom cần phải phá nổ (mà không biết nó sẽ nổ vào lúc nào), sự cầu viện tâm linh của cô gái (nhân vật tôi) giống như một ảo ảnh “Các anh cao xạ có nhìn thấy chúng tôi không ?”. Mặc dù “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần”, nhưng cái hồi hộp vẫn dường như không hể thay đổi. Như cái cảm giác chờ bom phát nổ: tất cả đều đứng im, cả gió, cả nhịp tim trong lồng ngực. Chỉ có chiếc đồng hồ: “Nó chạy, sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh cửu…”. Còn sau mỗi lần bom nổ, như từ cõi chết trở về đây là gương mặt tươi tắn của chị Thao “Chị cười răng trắng, vết sẹo bóng lên, mảnh dù bay trên lưng…”, còn với Phương Định, cái chết chỉ là khái niệm “mờ nhạt, không cụ thể”. Tuy dặn mình phải cảnh giác với nó, nhưng không phải là sợ nó mà chỉ vì sợ nếu “mảnh bom ghim vào cánh tay thì khá phiền”. Còn khi tưởng là Nho đã chết, tất cả đều lặng đi với bao nhiêu tâm trạng trái ngược nhau. Kẻ muốn hát, người thì muốn khóc. Chị Thao muốn hát và chị đã hát, một bài hát có phần lạc lõng (“Đây Thăng Long, đây Đông Đô… Hà Nội”). Nhạc sai bét, còn giọng thì chua, nhưng tình cảm rất đỗi chân thành: ấy là một khúc thánh ca. Còn người thứ hai, thích hát, hát hay “nhưng không muốn hát lúc này” vì những bài hành khúc bộ đội hành quân hay quan họ mềm mại, nhưng với Phương Định, tất cả đều không đúng chỗ. Trước đau thương, cũng là trước cái đẹp, cái cao cả, cái vĩnh hằng, chưa có một bài ca nào diễn tả nổi.
Đặc sắc nghệ thuật ở truyện ngắn này là cách xây dựng nhân vật và sự phối hợp giữa hai bút pháp: tự sự, trữ tình.
Về xây dựng nhân vật, tác giả rất lưu ý đến sự đa dạng. Mỗi nhân vật có những đặc điểm không giống nhau. Nho, mộc mạc và thơ mộng. Còn gì mộc mạc hơn, thậm chí vụng về hơn, trên cái gối nhỏ nhắn, màu trắng, Nho thêu những bông hoa cẩu thả và loè loẹt, những “đường viền to như dây thừng”, vì một lẽ đương nhiên “A, cho nó nối !”. Có đến hai chi tiết, hai lần miêu tả Nho ở dưới suối đi lên, và cả hai lần Nho đều rất đẹp. Lần thứ nhất: “Tóc ướt. Nước đọng từng giọt trong trên trán và trên mũi”. Lần thứ hai: “cứ quần áo ướt ngồi đòi ăn kẹo”. Cái thực của nhân vật gần với cái thực trong mơ, vì tất cả không liên quan gì đến sự căng thẳng ở chiến trường, nó thuộc về vĩnh cửu. Còn chị Thao giống như một sự phân thân. Là một người con gái rất sợ máu và vắt, cứ thấy máu và vắt là chị “nhắm mắt lại, mặt tái mét”, nhưng trước lúc “có chuyện”, trong khi Nho chụp cái mũ sắt lên đầu, chị Thao lại “móc bánh bích quy trong túi thong thả nhai”. Trước tình huống Nho có thể hi sinh, chị yêu cầu Định hát, nhưng có trời mới biết “những tình cảm gì đang quay cuồng” ở trong đầu con người giàu nghị lực ấy.
Còn về sự đan cài giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn thể hiện trong tâm hồn người con gái như những trận mưa bóng mây chợt đi chợt đến, bất ngờ. Nó giống như những vì sao, những đốm sáng. Một mặt chiến trường là một nhận thức hiện thực, thậm chí hiện thực nghiệt ngã “ở đây là nơi mà tuổi trẻ chúng tôi đang lớn lên”, nhưng còn nỗi nhớ là hiện thực thứ hai, hiện thực tâm hồn “không lúc nào chúng tôi không nhớ về Hà Nội”, cả hai không tách rời nhau tạo được một thứ âm hưởng bè đôi rất giàu có chất thơ, là một trong những thành công của tác giả. Cái kết của truyện đẩy sự kết hợp trên đây đến mức thăng hoa. Một trận mưa đá bất ngờ trở thành nỗi nhớ “Mà tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố”. Nỗi nhớ ấy chính là sự nối dài, quá khứ, hôm nay và khát vọng mai sau. Những ngôi sao trong câu chuyện cổ tích, về những xứ sở thần tiên, trong bối cảnh của cuộc chiến tranh, nó giống như một huyền thoại có một sức mạnh diệu kì để con người đi tới với đôi cánh đang bay. Hiện thực và lãng mạn, âm điệu trữ tình bay bổng cứ toả ánh sáng ra từ đó, từ “Những ngôi sao xa xôi”.