Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, cứu nước, nhân dân Việt Nam nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ của nhiều nước XHCN Đông Âu, ngoại trừ nước
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, cứu nước, nhân dân Việt Nam nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ của nhiều nước XHCN Đông Âu, ngoại trừ nước
Sau khi miền Bắc vừa giải phóng, Đảng và Chính phủ đã sớm coi trọng việc củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước, trước hết là Liên Xô và Trung Quốc, hai đồng minh chiến lược và là chỗ dựa chủ yếu của Việt Nam. Các nước đã được Chính phủ Việt Nam tạo mọi điều kiện thuận lợi để sớm đặt Đại sứ quán tại Hà Nội. Đảng, Chính phủ cũng chỉ đạo khẩn trương đặt Đại sứ quán Việt Nam tại các nước và chủ động cử nhiều đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Quân đội… đi thăm các nước.
Mở đầu là chuyến thăm Trung Quốc và Liên Xô tháng 7-1955 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở ra một trang sử mới trong quan hệ đồng minh chiến lược với các nước XHCN. Ngay trong chuyến thăm lịch sử này, Liên Xô và Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam về mặt kinh tế để ổn định đất nước, khôi phục nền kinh tế đã bị tàn phá trong chiến tranh và nâng cao đời sống nhân dân. Ngoài ra, Liên Xô còn giúp Việt Nam đào tạo chuyên gia tại các trường kỹ thuật trung cao cấp ở nước này và giúp tổ chức đào tạo chuyên gia tại các trường Việt Nam.
Ngày 8-2-1965, nhân dân Thủ đô Mát-xcơ-va (Liên Xô) mít-tinh ủng hộ nhân dân Việt Nam. Tiếp đó là các đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ, Quốc hội do các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Văn Tiến Dũng… dẫn đầu đến thăm và làm việc với nhiều nước trên thế giới. Quan hệ với Lào, Cam-pu-chia, các nước trong khu vực Đông Nam Á, cũng được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng.
Việt Nam cũng tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực. Tại các diễn đàn này, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào công việc chung của quốc tế, đồng thời biểu thị quan điểm ra sức góp phần bảo vệ hòa bình thế giới và duy trì đoàn kết quốc tế.
Những thành quả mà nhân dân Việt Nam đạt được trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã tạo nên thiện cảm, sự đồng tình ủng hộ của bạn bè năm châu đối với nhân dân ta. Nhiều đoàn đại biểu cấp cao của các nước đã đến thăm, ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta như Liên Xô (5-1957), In-đô-nê-xi-a (8-1959), Miến Điện (1957), Bun-ga-ri (10-1958), Trung Quốc (5-1960), Ghi-nê (9-1960), An-ba-ni (1960)…
Về viện trợ kinh tế, theo thống kê chưa đầy đủ, trong giai đoạn 1954-1964, Chính phủ ta đã ký kết các thỏa thuận với Chính phủ Liên Xô, Trung Quốc và Mông Cổ. Theo đó, trong 2 năm, Liên Xô đã giúp ta các thiết bị máy móc, kỹ thuật trị giá 306 tỉ đồng Việt Nam, để khôi phục và phát triển 25 xí nghiệp. Trung Quốc giúp Việt Nam khôi phục hệ thống đường sắt, bến tàu, tu sửa cầu đường, xây dựng các nhà máy dệt, thuộc da, giấy… trị giá 1.224 tỉ đồng Việt Nam trong 5 năm (1955-1960). Mông Cổ giúp ta 500 tấn thịt, một số bò và cừu để lập một nông trường chăn nuôi. Tính đến cuối năm 1962, Liên Xô đã viện trợ cho ta 1.400 triệu rúp, giúp xây dựng 34 nhà máy lớn, 19 nông trường, cải tạo 27 nông trường và một số trường đại học, một bệnh viện lớn… Trên các mặt văn hóa, giáo dục, y tế, Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN khác như Ba Lan, Tiệp Khắc, Bun-ga-ri, Hung-ga-ri, CHDC Đức… luôn tạo những điều kiện thuận lợi để mở rộng, phát triển các chương trình hợp tác về văn hóa, đào tạo cán bộ chuyên môn và cử chuyên gia sang giúp Việt Nam. Các hiệp định mậu dịch cũng được ký kết, tạo thuận lợi cho mở rộng giao lưu buôn bán giữa Việt Nam với các nước trong hệ thống XHCN. Nguồn vật chất to lớn này đã góp phần giúp Việt Nam hoàn thành thắng lợi các kế hoạch khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa thời kỳ sau năm 1954.
Về viện trợ quân sự, trong 10 năm từ 1954 đến 1964, nhân dân Việt Nam đã nhận được tổng khối lượng vật chất là 119.790 tấn, bao gồm vũ khí, đạn dược, trang thiết bị quân sự, lương thực, thực phẩm, thuốc men, y cụ. Bên cạnh đó, các nước XHCN còn trực tiếp giúp ta vốn, trang thiết bị khoa học-kỹ thuật, cử các đoàn chuyên gia thường xuyên sang giúp xây dựng các công trình công nghiệp, quốc phòng, dân sinh. Chỉ tính riêng về công trình quân sự, đến cuối năm 1964, các nước Liên Xô, Trung Quốc, Đức, Hung-ga-ri đã giúp ta hàng loạt công trình, với số vốn lên tới hàng chục triệu rúp như: Xưởng sửa chữa pháo và khí tài quang học (Z1) tỉnh Yên Bái; xưởng sửa chữa đạn (Z2) tỉnh Tuyên Quang; sân bay Nội Bài; trường Đại học Quân chính; phòng thí nghiệm cơ lý hóa vật liệu Trung ương… Bằng tinh thần tự học tập, tự nghiên cứu, sản xuất, các nhà máy, xí nghiệp, các công binh xưởng trên miền Bắc và ở chiến trường miền Nam Việt Nam đã khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn hỗ trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN, để phát triển lực lượng bảo vệ miền Bắc XHCN và chi viện cho chiến trường miền Nam.
Bên cạnh sự ủng hộ to lớn về vốn, khoa học – kỹ thuật, là sự ủng hộ về mặt chính trị, tinh thần của các nước bạn bè thế giới đối với Việt Nam. Đảng và nhân dân ta luôn cho rằng, sự ủng hộ về chính trị, tinh thần của các nước XHCN và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới, đối với cuộc đấu tranh chống Mỹ xâm lược có vai trò cực kỳ quan trọng. “Thắng lợi của cách mạng Việt Nam gắn liền với sự phát triển của cách mạng thế giới, gắn liền với sự ủng hộ và giúp đỡ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, trước hết là của giai cấp công nhân và nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác”. Chủ trương của Đảng là Việt Nam phải gắn với thế giới, tranh thủ tối đa mọi nguồn lực từ bên ngoài, kết hợp với nội lực bên trong, tạo ra sức mạnh tổng hợp, đảm bảo đánh thắng kẻ thù. Để thực hiện được mục tiêu đó, công tác đối ngoại phải đi tiên phong, giữ trọng trách chính để làm sáng tỏ tính chất chính nghĩa cuộc đấu tranh của Việt Nam với bạn bè quốc tế, góp phần tập hợp và mở rộng lực lượng quốc tế; từng bước chuyển hóa thế trận đấu tranh, phân hóa, cô lập kẻ thù trên trường quốc tế.
Bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Đảng chủ trương giương cao ngọn cờ pháp lý của Hiệp định Giơ-ne-vơ, kêu gọi sự ủng hộ, giúp đỡ của tất cả các nước đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta; lên án Mỹ và chính quyền độc tài phát xít Ngô Đình Diệm đàn áp, khủng bố đẫm máu phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam. Hoạt động của các kênh đối ngoại đã phát huy hiệu quả to lớn. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, đã có các hoạt động thiết thực của lãnh đạo và nhân dân ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Ngày 22-11-1956, trong chuyến thăm chính thức Việt Nam, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai đã ra tuyên bố vạch trần âm mưu của Mỹ, đang dùng mọi cách ngăn cản việc thống nhất Việt Nam, hòng biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, khẳng định nhân dân Trung Quốc hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam, chống việc phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, đồng thời kêu gọi các nước tham gia ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, phải có trách nhiệm ngăn chặn những hành động phá hoại của Mỹ-Diệm.
Ngày 20-3-1957, Chính phủ Tiệp Khắc ra tuyên bố hoàn toàn ủng hộ lập trường của Chính phủ Việt Nam, đòi các nước hữu quan phải làm tròn trách nhiệm của mình đối với Hiệp định Giơ-ne-vơ, đòi Hiệp định phải được thi hành nghiêm chỉnh. Tương tự, ngày 6-4-1957, Chính phủ Ba Lan cũng ra tuyên bố ủng hộ lập trường của Chính phủ ta và đòi các bên hữu quan phải tôn trọng và triệt để thi hành Hiệp định. Ngày 21-1-1959, thay mặt Chính phủ CHDC Đức, Thủ tướng Ốt-tô Gơ-rốt-tơ-von đang ở thăm Việt Nam, cũng kiên quyết lên án sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam, nhằm phá hoại hoà bình, chia cắt đất nước, đàn áp và khủng bố dã man những người yêu nước. Ngày 4-1-1962, Liên Xô tuyên bố: “Liên Xô không thể làm ngơ trước những hành động xâm lược của giới quân phiệt ở miền Nam Việt Nam. Liên Xô ủng hộ cuộc đấu tranh hợp pháp của nhân dân Việt Nam, đòi Mỹ lập tức đình chỉ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam và rút nhân viên quân sự ra khỏi miền Nam Việt Nam. Nhân dân Liên Xô tin chắc rằng, cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam cho tự do và độc lập dân tộc, thống nhất đất nước bằng phương pháp hòa bình và dân chủ, sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn. Tất cả các dân tộc yêu chuộng tự do trên thế giới đều đồng tình và ủng hộ nhân dân Việt Nam”.
Khi Mỹ mở rộng chiến tranh, phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, từ các nước XHCN đến các nước dân tộc chủ nghĩa. Phong trào ở các nước Bắc Âu sôi động và có ảnh hưởng rất lớn. Phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ cũng phát triển mạnh. Từ tháng 8-1964, sau khi Mỹ gây ra “Sự kiện vịnh Bắc Bộ”, sau đó phát động cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc Việt Nam, ta đã mở một cuộc tiến công mới, tố cáo, lên án hành động chiến tranh của Mỹ. Nhiều Chính phủ, nhân sỹ, trí thức nổi tiếng, các tổ chức dân chủ hòa bình, các tổ chức xã hội, tôn giáo… và nhân dân các nước trên thế giới lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ nhân dân Việt Nam, đòi Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Từ ngày 7 đến ngày 11-8-1964, hơn 20 triệu nhân dân các địa phương của Trung Quốc đã xuống đường tuần hành thị uy, ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ, thể hiện tình hữu nghị chiến đấu của 650 triệu nhân dân Trung Quốc với Việt Nam. Ngày 27-11-1964, Chính phủ Liên Xô khẳng định lập trường: “Liên Xô kiên quyết lên án những hành động xâm lược tiến hành bằng máy bay của Mỹ trên lãnh thổ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và đòi chấm dứt mọi hoạt động khiêu khích tương tự chống lại nhân dân Việt Nam… Những kẻ đang nuôi dưỡng mưu đồ phiêu lưu ở bán đảo Đông Dương, cần phải biết rằng: Liên Xô sẽ không thể làm ngơ trước vận mệnh của một nước XHCN anh em và Liên Xô sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam mọi sự cần thiết”. Từ ngày 25 đến 28-11-1964, theo sáng kiến của tổ chức Liên hiệp Công đoàn thế giới, Hội nghị quốc tế “Nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ hòa bình” họp tại Hà Nội, với 64 đoàn đại biểu của 52 nước và 12 tổ chức quốc tế tham dự, thể hiện ý chí đoàn kết với Việt Nam, đánh dấu bước đầu hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống Mỹ.
Nhìn một cách tổng quát, với đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong giai đoạn đầu cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ to lớn cả về vật chất lẫn tinh thần của bạn bè quốc tế, đặc biệt là các nước XHCN anh em. Các nhân tố quốc tế được chuyển hóa thông qua vai trò quyết định của yếu tố bên trong, tạo ra sức mạnh tổng hợp mà ở đó đã được kết hợp chặt chẽ và phát huy tối đa sức mạnh dân tộc và thời đại, với tinh thần tự lực, tự cường.
Thực lực càng được bồi đắp thì việc Việt Nam tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ giúp đỡ quốc tế càng thêm nhiều thuận lợi. Chính sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng sự ủng hộ và giúp đỡ thiết thực, hiệu quả của bạn bè quốc tế, đặc biệt từ các nước XHCN anh em, nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục phát triển kinh tế; sẵn sàng đối phó hiệu quả với việc mở rộng chiến tranh ra cả nước của đế quốc Mỹ.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam kéo dài 21 năm (1954 – 1975), có quy mô rộng lớn, tính chất và cường độ vô cùng quyết liệt. Việt Nam phải đương đầu với một đối phương có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn gấp nhiều lần, có bộ máy chiến tranh khổng lồ. Trong cuộc đối đầu lịch sử, ngọn cờ chính nghĩa của nhân dân Việt Nam đã tạo ra sức mạnh vượt trội cho cuộc kháng chiến thần kỳ. Sức mạnh ấy sẽ được nhân lên gấp nhiều lần, tính chính nghĩa càng tỏa sáng, khi được gắn với thế hợp pháp, gắn với các giá trị tiến bộ của nhân loại được thế giới đồng tình, cổ vũ, ủng hộ, giúp đỡ. Trên tinh thần đó, Đảng, Nhà nước Việt Nam ra sức vận động, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế và trong từng giây phút chiến tranh đấu trí, đấu lực đầy cam go ấy, Việt Nam không hề đơn độc, mà luôn có bạn bè quốc tế giúp đỡ nhiệt tình, hiệu quả, đặc biệt là sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Trong những năm kháng chiến ác liệt của quân và dân ta với sự ủng hộ về tinh thần, vật chất của khối các nước xã hội chủ nghĩa đã làm tăng lên đáng kể sức mạnh mọi mặt của Việt Nam hình thành những điều kiện cần và đủ để nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô và Trung Quốc.
Độc lập là vô giá, quyền dân tộc là thiêng liêng! Lúc này, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, tự do; nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân là bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ chế độ. Trên tinh thần đó “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”, Đảng ta chủ trương: “Củng cố chính quyền, dùng chính trị, ngoại giao, vũ khí cần thiết, đến dùng quân sự để giữ vững nền độc lập”[1]. Ngày 3/10/1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức ra thông cáo về chính sách ngoại giao, chỉ rõ mục tiêu bất di, bất dịch các chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam là “đưa nước nhà đến sự độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn”[2]. Trong điều kiện chính quyền non trẻ vừa mới ra đời chưa được bất kỳ một nước nào trên thế giới công nhận, đất nước bị bao vây bốn phía, nên việc mở rộng quan hệ, tranh thủ thêm bạn bè trở thành mục tiêu chiến lược quan trọng hàng đầu được Đảng ta xác định đối với các mặt đấu tranh chính trị, ngoại giao. Kiên trì ngoại giao với các nước theo nguyên tắc: Hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng và tương trợ. Đảng chủ trương mở các mũi đột phá ngoại giao, kết nối Việt Nam với các bạn bè dân chủ trên thế giới. Trên quan điểm ngoại giao, đa phương Đảng ta xác định:
1.“Việt Nam là một bộ phận trong đại gia đình Châu Á. Vận mệnh Việt Nam rất mật thiết quan hệ với vận mệnh các dân tộc Á Châu” [3]
2. “Việt Nam là một bộ phận trong nền hòa bình chung của thế giới”[4];
Đặt đất nước vào mối liên hệ với khu vực và thế giới, Chính phủ Việt Nam tuyên bố:
Thứ nhất, “đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực” [5]
Thứ hai, “đối với những nước Á Châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”[6]
Thứ ba, “thân thiện với tất cả các nước láng giềng Trung Hoa, Ấn Độ, Xiêm La, Cao Mên, Ai Lao…, mà không thù gì với nước nào”[7].
Như vậy, quan hệ của Việt Nam với bất kỳ nước nào trên thế giới, không phân biệt sang hèn, được xây dựng trên một trục cơ bản: Bình đẳng; mọi dân tộc sinh ra trên thế giới, dù sớm muộn, lớn nhỏ khác nhau, song đều có chung quyền cơ bản, đều có quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng mưu cầu hạnh phúc.
Thực hiện chủ trương đối ngoại phá thế bao vây của các thế lực thù địch, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành các hoạt động ngoại giao trên hai hướng chính: Thứ nhất, đề nghị các nước lớn (Liên Xô, Hoa Kỳ, Trung Quốc (Quốc dân Đảng)…) công nhận nền độc lập và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam; Thứ hai, phá thế bao vây, cô lập, thiết lập trên phạm vi rộng nhất có thể các mối liên hệ với các nước. Một trong những mũi nhọn đột phá, nhằm nối Việt nam với thế giới bên ngoài, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của khối các nước xã hội chủ nghĩa, đăc biệt là Liên Xô.
Ngày 22/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mật điện cho I.V.Stalin, thông báo về sự ra đời của Chính phủ Cách mạng ở Việt Nam, đề nghị Liên Xô giúp đỡ vượt qua những thách thức, khó khăn do thiên tai gây nên,…sau đó Người tiếp tục gửi bức công hàm với nội dung cụ thể hơn, chi tiết hơn, trình bày tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám thành công. Trong bức công hàm Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do đến cùng của nhân dân Việt Nam. Bức công hàm được phía Liên Xô đón nhận và hồi âm.
Nêu cao nguyên tắc: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”[8]. Thực hiện chính sách ngoại giao láng giềng thân thiện, bên cạnh các nổ lực hướng đến Liên Xô, Việt Nam đặt trọng tâm tranh thủ sự giúp đỡ của Trung Quốc – quốc gia láng giềng, núi liền núi, sông liền sông, và có mối quan hệ chính trị – kinh tế, văn hóa gần gũi.
Trên cơ sở đường lối vận động quốc tế, trong từng bước phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng Lao động Việt Nam, Nhà nước Việt Nam tiếp tục nghiên cứu diễn biến tình hình, có biện pháp, giải pháp phù hợp, hạn chế những yếu tố tiêu cực, tranh thủ mọi yếu tố có lợi, tích cực thuyết phục, vận động các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng tình, giúp đỡ nhân dân Việt Nam; đặt trọng tâm vào hai nước xã hội chủ nghĩa lớn là Liên Xô và Trung Quốc.
* Đến sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc
Cuối năm 1948 đánh dấu một bước tiến mới trong sự ủng hộ của Liên Xô đối với Việt Nam: Liên Xô đề nghị Hội đồng kinh tế Châu Á – Viễn Đông kết nạp Việt Nam làm hội viên nhưng đề nghị của Liên Xô bị một số nước bác bỏ. Từ năm 1948 đến khi hai nước đặt quan hệ ngoại giao chính thức (1950), nhờ có sự hỗ trợ của Liên Xô, các phái đoàn của Việt Nam mở rộng khả năng ra nước ngoài tham dự các hội nghị quốc tế và nhận được sự ủng hộ của một số nước dân chủ nhân dân khác. Sự ủng hộ của Liên Xô là nguồn động viên to lớn đối với nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh bắt buộc để giải phóng dân tộc ra khỏi ách đô hộ của giặc ngoại xâm.
Với mục tiêu trao đổi quan điểm, phối hợp hoạt động trên trường quốc tế, Việt Nam và Liên Xô thường xuyên trao đổi các đoàn thăm hỏi cấp cao. Từ năm 1954 đến 1959 có bốn chuyến thăm cấp cao của Việt Nam đến Liên Xô, trong đó, có ba chuyến thăm của Chủ tịch nước (Hồ Chí Minh), một chuyến thăm do Tổng Bí thư Trường Chinh dẫn đầu. Về phía Liên Xô, tháng 7/1957 ở Liên Xô, Hội Hữu nghị Xô – Việt được thành lập; từ sau khi đặt Đại xứ quán ở Việt Nam (11-1954), các chuyến thăm hữu nghị đến Việt Nam, ký kết các hiệp định hợp tác của các đoàn đại biểu Đảng, chính phủ Liên Xô khá thường xuyên. Đây là cơ hội để lãnh đạo hai nước trao đổi quan điểm về những vấn đề hai bên cùng quan tâm, tháo gỡ những khúc mắc, hiểu lầm, tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, phối hợp hành động trên trường quốc tế.
Với Liên Xô, từ năm 1955, Việt Nam, Liên Xô đã ký kết hàng loạt hiệp định, hình thành một hành lang pháp lý thông thoáng, thuận tiện cho hợp tác giữa hai nước: Hiệp định về đào tạo lưu học sinh Việt Nam trong các cơ sở giáo dục của Liên Xô (27/8/1955); Hiệp định về hợp tác văn hóa (15/2/1957); Hiệp tác về trao đổi hàng hóa, thương mại (30/3/1957); Hiệp định về thương mại và vận tải biển (12/3/1958); Hiệp định về hợp tác khoa học – kỹ thuật (7/3/1959); Hiệp định cung cấp và viện trợ kinh tế, kỹ thuật giúp Việt Nam thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất năm 1961-1965,… để thuận tiện cho việc thanh khoản.
Liên Xô tích cực giúp đỡ nhân dân Việt Nam thực hiện các kế hoạch kinh tế. Đặc điểm nổi bật trong sự giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt nam là viện trợ không hoàn lại. Theo hiệp định ngày 18/7/1955 Liên Xô viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 400 triệu rúp, giúp khôi phục và xây dựng 25 xí nghiệp [9]. Đồng ý hỗ trợ tiến hành các công việc khảo sát địa chất ở Việt Nam và phòng chống các bệnh truyền nhiễm, giúp xây dựng và khôi phục các xí nghiệp công trình công nghiệp, cơ quan thuộc các ngành cơ khí, than, điện lực, công nghiệp nhẹ. Những năm 1955-1956, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam số lượng hàng hóa trị giá 45 triệu rúp. Riêng năm 1956, khi Việt Nam thiếu lương thực trầm trọng Liên Xô lập tức chở sang Việt Nam 170 nghìn tấn gạo mua ở Mianma, 8,5 nghìn tấn đường và một số lượng lớn hàng tiêu dùng…
Như vậy, từ năm 1954 đến năm 1964 Liên Xô giúp Việt Nam thiết lập cấu trúc kinh tế của đất nước, đặt nền móng cho một số ngành công nghiệp hiện đại (nhiệt điện, thủy điện, cơ khí, hóa chất, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm…), ủng hộ, giúp đỡ nhân dân Việt Nam khôi phục và phát triển kinh tế, đào tạo cán bộ cho miền Bắc. Về sự ủng hộ, giúp đỡ của Liện Xô đối với Việt Nam như Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát biểu: “Sự giúp đỡ to lớn và quý báu của Liên Xô đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới của nhân dân miền Bắc Việt Nam…Toàn bộ sự giúp đỡ của Liên Xô có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với việc hoàn thành thắng lợi kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa”[10]. Ngoài ra Liên Xô còn viện trợ cho Việt Nam một lượng lớn vũ khí, đạn vượt để giúp nhân dân Việt Nam đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai xâm lược.
Với Trung Quốc, do bề dày quan hệ và vị trí địa lý liền kề, Trung Quốc được xác định là hậu phương lớn của Việt Nam trong cuộc đối đầu với đế quốc Mỹ, nên sự trao đổi, bàn bạc giữa lãnh đạo hai nước thường xuyên hơn, chặt chẽ hơn. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Trung quốc đã kề vai, sát cánh, ủng hộ Việt Nam suốt chiều dài cuộc chiến. Sau năm 1954, sự hiện diện của Mỹ ở miền Nam Việt Nam khiến Trung Quốc lo lắng về an ninh biên giới phía Nam; do vậy, Trung Quốc lập tức có những động thái cụ thể ủng hộ Việt Nam. Cũng giống như đối với Liên Xô, trao đổi các đoàn cấp cao Việt – Trung là một trong những hoạt động quan trọng. Ngoài các đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam liên tục tới thăm Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hàng chục cuộc hội đàm trao đổi không chính thức với các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Trung Quốc là một trong những quốc gia lên tiếng phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của Mỹ ở Việt Nam. Các nhà lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc tổ chức nhiều hoạt động phong phú thể hiện tình đoàn kết hữu nghị với nhân dân Việt Nam. Ngày 19/7/1960, hơn một vạn nhân dân Thủ đô Bắc Kinh tổ chức míttinh trọng thể lên án tội ác của Mỹ – Diệm, ủng hộ Việt Nam. Tháng 12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời và khi các nước xã hội chủ nghĩa khác còn chần chừ thì Trung Quốc là một trong những nước đầu tiên, sớm nhất công nhận và đồng ý để Mặt trận mở cơ quan đại diện tại nước mình. Ngay sau khi xảy ra sự kiện vịnh Bắc Bộ (8/1964) thì thái dộ Trung Quốc khá quyết liệt “nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là nước láng giềng khăng khít như môi với răng của Trung Quốc. Nhân dân Việt Nam là những người anh em thân như ruột thịt của nhân dân Trung Quốc. Nhân dân Trung Quốc quyết không khoanh tay ngồi nhìn mà không cứu”[11]. Thảo luận với Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đang ở thăm Trung Quốc (8/1964, Mao Trạch Đông tuyên bố: Trung Quốc không có ý định khiêu khích Mỹ, nhưng đã lên kế hoạch triển khai 30.000 – 50.000 quân ở phía nam Trung Quốc, xây dựng hai sân bay ở Nam Ninh cho máy bay cất cánh sang Việt Nam nếu Bắc Việt Nam bị đe dọa. Liên tiếp trong 5 ngày từ ngày 7 đến ngày 11/8/1964, hơn 20 triệu nhân dân Trung Quốc ở các tỉnh, thành khác nhau xuống đường tuần hành cực lực lên án Mỹ mở rộng chiến tranh chống miền Bắc Việt Nam. Đến ngày 25/8/1964, Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh nhận được gần 30.000 bức thư của các tầng lớp nhân Thượng Hải ủng hộ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Sự ủng hộ tích cực về chính trị của Trung Quốc đối với Việt Nam được thể hiện qua những tuyên bố, những bức điện gửi các nhà lãnh đạo Việt Nam, phát biểu của các nhà lãnh đạo Trung Quốc; qua những bức điện của các tổ chức đoàn thể Trung Quốc gửi cho các đoàn thể tương ứng Việt Nam…Ngoài ra Trung Quốc còn giúp đỡ Việt Nam cơ sở vật chất, các trang thiết bị, các loại vũ khí, đạn vượt để nhân dân Việt Nam chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Ngoài Liên Xô và Trung Quốc các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng tích cực ủng hộ nhân dân Việt Nam. Trong thời gian này, nhiều đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ các nước Ba Lan, Hunggari, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa Dân chủ Đức, Cu ba,…đã đến thăm Việt Nam. Các nước đều khẳng định lập trường ủng hộ nhân dân nhân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do. Những cuộc viếng thăm đó là sự cổ vũ to lớn đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và góp phần thắt chặt thêm tình đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa. Trên các mặt hợp tác, giúp đỡ về văn hóa, giáo dục, y tế, Ba Lan, Tiệp Khắc, Bungari, Hunggari, Cộng hòa Dân chủ Đức,…luôn tạo những điều kiện thuận lợi để mở rộng, phát triển các chương trình hợp tác về văn hóa, giúp đào tạo về cán bộ chuyên môn và cử chuyên gia sang giúp Việt Nam. Những nghĩa cử chí nghĩa, chí tình của các nước xã hội chủ nghĩa không chỉ là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với nhân dân Việt Nam, mà còn trực tiếp tăng cường sức mạnh cho Việt Nam trên vũ đài chính trị thế giới.
Sự giúp đỡ nhiệt thành của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam trong tình thế Việt Nam đơn độc trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, là vô cùng quan trọng, hết sức to lớn và quý báu. Nhân dân Việt Nam sử dụng sự giúp đỡ ấy một cách hiệu quả, từng ngày, từng giờ tạo ra sức mạnh cần và đủ để chiến đấu chống ngoại xâm giành thắng lợi, đưa Việt Nam thống nhất đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội