Viết 1 bài văn giới thiệu và nêu cảm nghĩ của em vè 1 trong những tác phẩm viết về đà lạt mà em sưu tầm được , hoặc viết 1 bài văn hay 1 bài thơ về đà lạt ( em đang cần gấp ạ , ai biết giúp em với ạ )
Viết 1 bài văn giới thiệu và nêu cảm nghĩ của em vè 1 trong những tác phẩm viết về đà lạt mà em sưu tầm được , hoặc viết 1 bài văn hay 1 bài thơ về đà lạt ( em đang cần gấp ạ , ai biết giúp em với ạ )
Giống tất cả mọi người dân Việt Nam, tôi yêu tiếng nói của dân tộc mình, thứ tiếng nói lên bổng xuống trầm đầy cảm xúc. Vì thế tôi yêu những câu lục bất uyển chuyển và đằm thắm chứa chan tình cảm. Vì lẽ đó, cũng chẳng có gì là lạ, là đặc biệt khi tôi yêu văn học nước mình, và tôi say mê Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tôi say mê Kiều bởi ở Kiều tôi thấy Nguyễn Du, một Nguyễn Du của tài và tình, một nguyễn Du có tình yêu tha thiết với dân tộc và tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông đối với những kiếp người bất hạnh. Mà bất hạnh nhất trong xã hội xưa là người phụ nữ – những con người hồng nhan bạc phận.Tôi muốn nói về sự kính trọng của tôi đối với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Cả dân tộc ta đã kính trọng ông nhưng tôi vẫn muốn thể hiện những tình cảm của mình đối với người thi nhân đa tài mà đa đoan ấy.
Điều đầu tiên khiến tôi yêu quý và kính trọng Nguyễn Du chính là tình cảm của ông dành cho con người. Ông là con người có tấm lòng nhân hậu. Có lẽ, đây chính là yếu tố quan trọng để ông có được những tác phẩm văn học chứa đựng những giá trị nhân đạo sâu sắc. Người thi nhân đa đoan, viên quan đại thần dòng dõi của triều Lê ấy không biết đã bao lần “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”. Chính ông đã tự nhận ra rằng, người thi nhân bất hạnh bởi thi nhân luôn là người tự vận nỗi đau, nỗi bất hạnh của người khác vào mình (Phong vận kỳ oan ngã tự cư). Lòng nhân hậu khiến ông luôn rất nhạy cảm với nỗi đau khổ của người khác, vì thế những thi phẩm của ông luôn đầm đìa nước mắt: nước mắt của nàng Kiều, nước mắt của người ca nữ đất Long Thành và của nàng Tiểu Thanh. Họ đều là những con người tài hoa, tài sắc song toàn mà mệnh bạc. Nhà thơ đồng cảm và đau nỗi đau của những người ấy không đơn giản chỉ là sự cảm thông của con người đối với con người. Nỗi đau của Nguyễn Du còn là sự nuối tiếc, xót xa trước sự ra đi của những tài năng. “Cái tốt đẹp thì khó bền”, “hoa thường hay héo cỏ thường tươi”, đó là quy luật của cuộc đời. Sự vô tình của con người trước nỗi đau, trước giá trị của cái đẹp cũng là lẽ thường. Biết vậy Nguyễn Du vẫn luôn trăn trở day dứt:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
“Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha” (Tố Hữu) chính là điều khiến ông luôn được người đời trân trọng.
Điều thứ hai khiến tôi say mê Nguyễn Du chính là bởi tài năng. Nguyễn Du yêu Tiếng Việt nên ông đã sử dụng thành công và làm Tiếng Việt phong phú thêm bao nhiêu. Bao nhiêu năm nay chúng ta đọc và say mê Truyện Kiều một phần bởi cái giọng điệu lục bát dễ đọc, dễ thuộc, dễ nghe. Nguyễn Du đã gửi gắm ở Truyện Kiều một tình yêu lớn đối với tiếng nói và thể thơ dân tộc. Ông dùng những từ ngữ, những cách diễn đạt gần gũi với tiếng nói của nhân dân. Dân dã mà vẫn thật hay, vẫn uyên bác và giàu chất nghệ thuật. Ví như những bức tranh bốn mùa của ông:
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Tiếng Việt đẹp hơn, giàu âm thanh, hình ảnh và sắc điệu hơn bởi khả năng sáng tạo của ông. Truyện Kiều đã đưa thể hiện một cách phong phú nhất khả năng biểu hiện của Tiếng Việt và khả năng biểu cảm của thể thơ lục bát.
Có biết bao nhiêu lí do để ta trân trọng đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, và lí do lớn nhất, chính đáng nhất chính là nhân cách cao đẹp của ông, kết quả của sự kết hợp hài hoà giữa tài và tình Nguyễn Du.
Cái rét đầu đông
Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa
Cái rét đầu đông khăn em hiu hiu gió lạnh…
Ai xui chi sáng nay, quán cà phê tôi vẫn thường ngồi nhìn ra phía Hồ Tây lại mở băng nhạc hát về Hà Nội. Tiếng hát cứ réo rắt kéo hồn người vào một nỗi buồn ảm đạm, kéo tôi về một ngày thật xa – ngày tôi đọc bài Chia tay người Hà Nộicủa Bùi Thanh Tuấn. Ngày ấy xa lắm, nhưng bài thơ chỉ một lần đọc như in sâu vào trí nhớ. Hà Nội chớm lạnh. Cái lạnh đầu mùa bao giờ cũng thế – gợi nhớ và buồn. Có lẽ Chia tay người Hà Nội ra đời trong khoảnh khắc như vậy?
Mùa thu làm cây cầu để mùa đông là nơi hội tụ những cơn gió se lạnh mang hơi thở chứa nỗi buồn vắng lặng. Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa, lời mở đầu bài thơ bình thường nhưng ẩn chứa một điều gì đó buồn man mác. Chữ “vắng” làm trọng tâm cho hồn người đọng lại.
Chiều Hà Nội, bên bờ Hồ Tây lạnh buốt trong mưa bay, ai nỡ lòng chạy trốn! Lãng mạn để rồi “giật mình bật khóc” trước “cái rét đầu đông”. Cô quạnh và bàng hoàng. Có lẽ cái rét thiếu những hạt mưa đầu mùa làm cho con người lay lắt, kỷ niệm chợt về kết thành cái giật mình đâu phải khách quan. Mỗi chiều tan học, hoa sữa trong con mắt đầy tâm trạng không còn rơi nữa mà chỉ lặng lẽ đếm bước chân dọc chiều đông buồn hun hút. Trúc Bạch giận hờn, chút giận hờn để con nước thả trôi câu lục bát; từ quán cóc vẹo xiêu dăm ba tiếng nhạc đến Hồ Tây với một câu Kiều… tất cả như rời rạc, mà dồn dập chồng chất cho nỗi buồn càng quắt quay trong cái rét đầu mùa – nỗi buồn vây bủa phủ kín Hà Nội.
Đằng sau cái giật mình bật khóc của cái rét đầu đông là sự giận hờn chồng chất những hình ảnh “câu lục bát”, “dăm ba tiếng nhạc”, “một câu Kiều”… Chồng chất nhưng tẻ nhạt. Các số từ cố diễn tả cụ thể lại càng làm mơ hồ, khó xác định – có phải đó chính là cảm giác chơi vơi của người có tâm trạng? Chắc chắn Hà Nội không thể tẻ nhạt, có chăng trước mắt là lăng kính tâm trạng, một tâm trạng chứa đầy kỷ niệm. Kỷ niệm bây giờ như dấu chấm tròn nằm lặng lẽ để khi vô tình động đến là “giật mình bật khóc”; để khi gom nhặt lại làm thành một tiếng buồn vọng mãi, dồn nén cho đến khi thốt thành lời: “Hà Nội trời buồn nhớ mắt người yêu”.
Vì sao con nước thả trôi câu lục bát; vì sao hoa sữa thôi rơi… đến đây mới vỡ òa nhận ra. Cái nỗi niềm không thể tâm sự này làm sao giấu nổi! Cái gì làm cho con người ta không thể chạy trốn cái rét đầu mùa; cái gì làm cho “dấu chân buồn” lặng lẽ bước hoài trong chiều đông lạnh buốt… Phải chăng đó là nỗi nhớ?
Tám câu đầu mở ra để đi tới tận cùng, dồn vào bốn câu cuối mà trung tâm là chữ “NHỚ”. À, không! Tám câu đầu như cố phong toả tâm trạng nhưng “càng lắc càng đầy” – đầy mãi, để rồi sự chịu đựng không còn kiềm chế được, để ba chữ nhớ liên tiếp thốt ra mong làm vơi chút nỗi niềm. Bài thơ như dẫn người đọc bước mãi lên những bật tam cấp, nơi ấy chứa đựng một nỗi niềm tâm sự “ngõ hoa giờ hút dấu gót hài xưa”. Giờ xa lắc nhưng gót hài xưa vẫn in lại nguyên hình để hiện tại chỉ còn là sự tồn tại vô nghĩa lý.
Nỗi nhớ cứ níu kéo tơi tả hồn người trở về với quá khứ, về cái “buổi chia tay mắt đầy hoa tím” – buổi chia tay mà cảnh vật như được thâu gọn trong đôi mắt đượm một màu hoa. Chia tay, gót hài chấm mãi lên ngõ hoa, xa dần… chỉ còn lại mùa đông lạnh vắng! Trong trống vắng ấy của Hà Nội, một mình lần theo dấu hài xưa đi tìm lại dáng dấp của người yêu trong từng quán cóc vẹo xiêu, từng hàng me giờ đã thành kỷ niệm, để nỗi nhớ chảy ngược về tim gõ nhịp theo bước chân buồn lặng lẽ. Cái thoáng se lạnh chớm đông càng làm cho hồn người rét buốt, gợi cho “Hà Nội mùa này nhớ những cơn mưa” ! Vì vắng nên Hà Nội nhớ, nỗi nhớ cứ dài ra như tiếng vọng một câu Kiều.
Ngoài kia gió đã chuyển mùa. Đọc bài thơ ngắn của Bùi Thanh Tuấn làm nỗi buồn cứ len lỏi, giọt cà phê cùng tiếng nhạc như giọt buồn, giọt nhớ rơi giữa Hồ Tây.
cho mình 5 sao nhé và cho mình CTLHN